Tin nông nghiệp ngày 12 tháng 10 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 12 tháng 10 năm 2019

Ghép táo chua và táo dại cho kết quả kinh ngạc

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Từ trồng thử nghiệm 5 cây giống táo chua và táo ngọt nguồn gốc từ tỉnh Hưng Yên, rồi ghép với gốc táo dại tại địa phương, ông Nguyễn Văn Hồng, KP. Hải Điền, TT. Long Hải, huyện Long Điền (Bà Rịa - Vũng Tàu) đã trồng thành công vườn táo 200 gốc, thu về khoảng 300 triệu đồng mỗi năm.

Ông Nguyễn Văn Hồng ghép giống thành công loại táo.

Ông Nguyễn Văn Hồng cho biết, trước đây vườn đất của gia đình chủ yếu là trồng nhãn nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Năm 1994, qua một người bạn nhập cây giống táo chua và táo ngọt (táo má hồng) ở Gia Lộc, Hưng Yên vào trồng. Thấy có hiệu quả ông Hồng chặt bỏ bớt cây nhãn, mua lại 5 cây táo giống, cao khoảng 3cm trồng thử. Sau một năm chăm sóc, nhận thấy cây táo phát triển tốt, phù hợp với chất đất, ông Hồng đi tìm đào những gốc cây táo hoang dại về làm gốc ghép, rồi cắt những mắt cành từ cây giống ghép lên. Từ 5 cây táo giống ban đầu, sau một năm, ông Hồng đã nhân giống thành vườn táo 200 gốc trên diện tích 0,5ha đất của gia đình.

Các cây táo có gốc ghép là cây hoang dại nên khả năng chịu được với môi trường khắc nghiệt. Khi đưa vào trồng trong vườn, được chăm sóc nên cây phát triển tốt, cho trái nhiều và ít bị nhiễm bệnh. Cây sau khi ghép được trồng theo từng hàng thẳng, hàng cách hàng 5m và cây cách cây 5m. Hàng năm, sử dụng phân hữu cơ hai lần và phân vô cơ 4 lần để bón cho cây. Năm đầu tiên, khi cây cho trái non hái bỏ để tập trung dinh dưỡng cho việc nuôi cây sinh trưởng, qua năm thứ hai mới thu hoạch.

Theo ông Hồng, táo má hồng trái tròn, có vị ngọt. Táo chua trái dài, bầu dục, có vị chua. Khi chín táo có màu vàng chanh. Táo có năng suất tăng dần theo từng năm. Những năm đầu mỗi cây cho trái từ 10-15kg/cây. Bước qua năm thứ năm trở về sau, mỗi năm một cây cho năng suất từ 70-80kg. Mùa vụ thu hoạch từ tháng 5 (đầu mùa mưa) cho đến tháng 12. Hết vụ thu hoạch phải cưa bỏ các cành, chừa mắt gốc, chăm sóc trong khoảng 5-6 tháng thì táo ra trái cho vụ tiếp theo. Thời gian từ khi ra hoa đến thu hoạch khoảng 100 ngày. Khi vào vụ tất cả các cành táo đều có hoa và trái. Trên cây táo luôn có trái non và trái chín nên việc thu hoạch trái phải thu hàng ngày và theo phương pháp cuốn chiếu.

Việc chăm sóc cây táo ghép không phức tạp như một số cây trồng khác vì sức chịu hạn và đề kháng của cây rất tốt. Tuy cây táo ít bị sâu bệnh nhưng đến giai đoạn ra hoa, đậu trái vào mùa gió Bắc có nhiều nấm phấn trắng và trái thối vào mùa mưa. Để phòng bệnh, khi trái còn nhỏ ông Hồng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Trái trước khi thu hoạch 7-10 ngày, ông Hồng sử dụng chế phẩm sinh học và dung dịch ngâm hỗn hợp ớt, tỏi, gừng phun xịt lên cây.

Với 200 gốc cây táo đang cho quả, mỗi năm ông Hồng thu hoạch khoảng 15 tấn. Khi thu hoạch có thương lái đến tại vườn thu mua với giá bình quân 20.000 đồng/kg, mỗi năm vườn táo cho thu nhập khoảng 300 triệu đồng.

TRỌNG HOÀNG

Bưởi Phúc Trạch ‘cháy hàng’ khi lần đầu được giới thiệu tại Big C và GO!

Nguồn tin: Báo Công Thương

Với đặc điểm hương thơm ngát, ngọt đậm, tép khô và mọng nước, giòn… bưởi Phúc Trạch - đặc sản nổi tiếng của tỉnh Hà Tĩnh lần đầu tiên được giới thiệu tại hệ thống 17 siêu thị Big C và GO! khu vực miền Bắc đã được đông đảo người tiêu dùng đón nhận.

Đặc biệt, nhằm tạo sự thuận tiện để người tiêu dùng dễ dàng mua sản phẩm đặc sản Hà Tĩnh, Big C và GO! sẽ áp dụng hình thức bán hàng theo từng quả thay vì theo kg và áp dụng khuyến mãi hấp dẫn với giá bán chỉ 49.900 đồng/quả (giá thường là 55.900 đồng/quả)… Ngay khi vừa được giới thiệu tại Big C, bưởi Phúc Trạch đã lập tức nhận được sự quan tâm đặc biệt của người tiêu dùng Thủ đô Hà Nội và sớm “cháy hàng”, nhiều siêu thị hết hàng sớm.

Dự kiến, trong 2 tuần (từ ngày 9/10 đến hết ngày 20/10/2019) diễn ra chương trình “Quảng bá đặc sản Hà Tĩnh – bưởi Phúc Trạch”, các siêu thị Big C và GO! sẽ tiêu thụ hàng chục ngàn quả bưởi Phúc Trạch.

Bưởi quý Phúc Trạch - đặc sản Hà Tĩnh, cháy hàng khi được giới thiệu ở Big C

Hộ nông dân Nguyễn Thị Hằng, đơn vị cung cấp sản phẩm bưởi Phúc Trạch Hà Tĩnh cho Hệ thống siêu thị Big C chia sẻ: “Bưởi Phúc Trạch năm nay được mùa. Với diện tích trồng bưởi 50ha, cho sản lượng năm 2019 đạt khoảng 70 - 100 tấn bưởi. Kênh phân phối chủ yếu của các hộ nông dân như chúng tôi là các thương lái tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Có cơ hội hợp tác với Big C, chúng tôi rất mong tìm được một nguồn đầu ra ổn định về cả sản lượng và giá cả để có thể yên tâm mở rộng sản xuất. Ngoài ra chúng tôi mong muốn có thể quảng bá rộng rãi hơn nữa sản phẩm đặc sản “bưởi Phúc Trạch” đến tay người tiêu dùng Thủ đô Hà Nội và cả nước. Trên cơ sở đó, chúng tôi đang phấn đấu mở rộng diện tích trồng trọt, định hướng thâm canh theo mô hình Việt Gap và dự kiến sẽ thành lập Hợp tác xã vào năm 2020”.

Theo bà Nguyễn Thị Phương - Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Central Retail Việt Nam, thực hiện cam kết “đóng góp vào sự thịnh vượng của Việt Nam và nâng cao chất lượng cuộc sống của người Việt”, của Central Retail Việt Nam, đơn vị thành viên của Tập đoàn Central Retail Việt Nam là Big C và GO! lần đầu tiên triển khai chương trình “Quảng bá đặc sản Hà Tĩnh – bưởi Phúc Trạch. “Chúng tôi hy vọng, chương trình quảng bá diễn ra đồng loạt ở 17 siêu thị Big C và GO! khu vực miền Bắc sẽ góp phần quảng bá thương hiệu cho bưởi Phúc Trạch; tạo đầu ra ổn định và bền vững cho trái bưởi Phúc Trạch, và mở ra cơ hội để nhiều loại đặc sản khác của tỉnh Hà Tĩnh phát triển trong hệ thống Big C và GO! trên toàn quốc”, bà Nguyễn Thị Phương nói.

Chương trình “Quảng bá đặc sản Hà Tĩnh – bưởi Phúc Trạch”, gần tương tự các chương trình đã được Big C thực hiện trước đó, nhằm hỗ trợ quảng bá, kích cầu, tạo giá trị gia tăng và xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam, như: Tuần lễ Xoài và nông sản an toàn tỉnh Sơn La 2019; Chương trình quảng bá “Đặc sản su su Nghệ An trồng trên cát” tại Big C miền Bắc, tháng 3/2019; Chương trình “Đồng hành cùng cùng người nông dân xã Đức Chính, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, đẩy mạnh tiêu thụ cà rốt Hải Dương”…

Nguyễn Hạnh

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ - hướng đi bền vững cho trái cây Tây Ninh

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Theo các chuyên gia nông nghiệp, việc canh tác theo hướng hữu cơ không ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ người sản xuất lẫn người tiêu dùng; không gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng độ phì nhiêu cho đất, tăng sức đề kháng cho cây trồng; tạo ra các sản phẩm có mẫu mã đẹp, hương vị thơm ngon được thị trường ưa chuộng…

Vườn bưởi da xanh canh tác theo phương pháp hữu cơ của gia đình anh Lâm Hữu Cuộc (bìa trái).

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Tây Ninh có khoảng 20.440 ha cây ăn trái, chủng loại cây ăn trái của tỉnh khá đa dạng. Việc trồng cây theo hướng hữu cơ thay thế phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hoá học bằng các loại có nguồn gốc sinh học hiện đang được người dân áp dụng vào quá trình sản xuất, tạo ra sản các phẩm có chất lượng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.

Hiện nay, toàn tỉnh có trên 384.000 ha đất sản xuất nông nghiệp; đất đai màu mỡ; thời tiết, khí hậu ôn hoà, phù hợp để phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa, dược liệu; chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung, quy mô lớn và đa dạng hoá các sản phẩm nông sản mang tính đặc trưng của địa phương. Phát huy lợi thế đó, tỉnh ta tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ.

Đồng thời, tỉnh đang xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn theo hình thức trang trại, vùng nông nghiệp hữu cơ đạt các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế; kết nối sản xuất nông nghiệp hữu cơ với công nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm; cơ cấu lại hệ thống tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã liên kết, ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản hữu cơ với nông dân.

Theo các chuyên gia nông nghiệp, việc canh tác theo hướng hữu cơ không ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ người sản xuất lẫn người tiêu dùng; không gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng độ phì nhiêu cho đất, tăng sức đề kháng cho cây trồng; tạo ra các sản phẩm có mẫu mã đẹp, hương vị thơm ngon được thị trường ưa chuộng…

Chính vì những lợi ích đó mà sau khi đi tham quan mô hình trồng cây ăn quả theo hướng hữu cơ, anh Lâm Hữu Cuộc (ngụ ấp Trường An, xã Trường Tây, huyện Hoà Thành) đã phá bỏ cao su, chuyển sang trồng bưởi da xanh. Anh Cuộc cho biết: “Trước đây, khi trồng cây ăn trái, gia đình tôi chủ yếu sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hoá học.

Từ khi biết đến việc sản xuất theo hướng hữu cơ an toàn cho sức khoẻ của người sử dụng và cả chính nhà nông, tôi chuyển đổi cây trồng và hướng sản xuất. Sau khi phá cao su, tôi cải tạo 1,8 ha đất, lắp đặt hệ thống ống tưới tự động. Phân bón tôi sử dụng cho vườn bưởi là phân bò, tro cây, bánh dầu với đậu nành xay ra ủ với nấm Trichoderma. Để phòng trừ sâu bệnh cho cây, tôi tự chế thuốc trừ sâu bằng ớt, tỏi, gừng xay ra ngâm với rượu phun xịt. Để chống ruồi vàng, tôi sử dụng long não. Từ khi áp dụng biện pháp sinh học trong canh tác, bưởi ra trái nhiều hơn, chất lượng cũng ngon hơn”.

Do vườn cây được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, bón phân hữu cơ đúng liều lượng nên luôn xanh tốt, phát triển đều, không dịch bệnh. Mỗi năm anh Cuộc thu lợi nhuận từ vườn bưởi hữu cơ hơn 1 tỷ đồng.

Nhận thấy lợi ích từ việc sản xuất theo hướng hữu cơ, từ hơn 3 năm nay, anh Lưu Văn Xu (ngụ xã Thạnh Bắc, huyện Tân Biên) chuyển hẳn sang sử dụng chế phẩm sinh học, phân bón hữu cơ cho vườn xoài của gia đình. Anh Xu chia sẻ, gia đình anh có trên 4 ha đất trồng mì, mía. Năm 2015, để tăng giá trị sản xuất trên một diện tích, anh Xu quyết định cải tạo đất và trồng xoài theo hướng hữu cơ, tuyệt đối không sử dụng thuốc BVTV hoá học mà sử dụng chế phẩm sinh học, thuốc trừ nấm hữu cơ.

“Vườn xoài của gia đình tôi đạt năng suất bình quân trên 20 tấn/ha. Với giá bán từ 15.000-20.000 đồng/kg, mỗi năm gia đình tôi thu được khoảng 800 triệu đồng”, anh Xu cho biết thêm.

Mặc dù vậy, theo Sở NN&PTNT, nông nghiệp Tây Ninh đang bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Cụ thể như chất lượng giá trị gia tăng của một số ngành hàng chưa cao do chưa có hoặc thiếu sự liên kết chuỗi, sản phẩm thiếu đồng bộ. Vì vậy, theo ông Võ Đức Trong, Giám đốc Sở NN&PTNT, trong thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tăng cường các hoạt động chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân, đổi mới nội dung và phương pháp khuyến nông theo hướng sản xuất gắn với thị trường; phát triển nông nghiệp theo hướng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu (VietGAP, GlobalGAP, nông nghiệp hữu cơ) gắn với phát triển các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong cung ứng giống, vật tư cây trồng, bảo đảm cây giống sạch bệnh, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định, tạo ra các sản phẩm sạch đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thị trường, nâng cao thu nhập, đời sống người dân.

Giải pháp để phát triển nông nghiệp hữu cơ theo hướng bền vững là đầu tư xây dựng mới, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp hữu cơ; nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ công (khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật, an toàn thực phẩm, cảnh báo môi trường); xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư; tăng cường và mở rộng hợp tác với các địa phương trong nước, các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ; hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong sản xuất, chế biến, xây dựng thương hiệu lớn gắn với chỉ dẫn địa lý, quảng bá sản phẩm nông sản hữu cơ; nâng cấp, duy tu bảo dưỡng các công trình thuỷ lợi hiện có…

Anh Lưu Văn Xu bao trái vườn xoài của gia đình.

Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền tới người sản xuất hiểu được nhiều lợi ích của sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đó là bảo đảm sức khoẻ cho người trực tiếp sản xuất, bảo vệ môi trường và tạo sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng; kéo dài tuổi thọ cho cây trồng, phát triển bền vững, giúp người dân tiết kiệm được chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế.

Tuy nhiên, để thực hiện sản xuất nông nghiệp hữu cơ có hiệu quả, các cấp, các ngành chức năng cần tập trung tuyên truyền, quán triệt, phổ biến sâu rộng đến nhân dân về trách nhiệm đối với việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hữu cơ. Các cấp, các ngành; các cơ quan, đơn vị, địa phương cần xác định phát triển nông nghiệp hữu cơ là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng hàng đầu.

Theo Nghị định số 109/2018 ngày 29.8.2018 của Chính phủ về nông nghiệp hữu cơ:

- Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống sản xuất bảo vệ tài nguyên đất, hệ sinh thái và sức khoẻ con người, dựa vào các chu trình sinh thái, đa dạng sinh học thích ứng với điều kiện tự nhiên không sử dụng các yếu tố gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái.

- Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là hệ thống quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bao gói, vận chuyển, bảo quản phù hợp với tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ.

- Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ là thực phẩm, dược liệu, mỹ phẩm và sản phẩm khác hoặc giống cây trồng, vật nuôi; thức ăn chăn nuôi được sản xuất, chứng nhận và ghi nhãn phù hợp theo quy định tại Nghị định này.

- Nguyên tắc sản xuất nông nghiệp hữu cơ là không dùng các vật tư là chất hoá học tổng hợp trong tất cả các giai đoạn của chuỗi sản xuất, tránh trường hợp con người và môi trường tiếp xúc với các hoá chất độc hại, giảm thiểu ô nhiễm ở nơi sản xuất và môi trường chung quanh, Không sử dụng công nghệ biến đổi gen, phóng xạ và công nghệ khác có hại cho sản xuất hữu cơ.

Vũ Nguyệt

Lúa Đông xuân ‘chạy đua’ để né hạn, mặn

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Bước sang tháng 10-2019, nước lũ đã về nhưng vẫn được xem là lũ nhỏ so với nhiều năm. Đây được xem là thách thức lớn cho vụ lúa Đông xuân khi nhiều dấu hiệu cho thấy hạn, mặn sẽ đến sớm hơn trong mùa khô tới đây.

Nông dân vệ sinh đồng ruộng chuẩn bị xuống giống lúa Đông xuân.

Giảm lúa vụ 3 để đón phù sa

Trong gần 10 năm trở lại đây, ĐBSCL đã thoát khỏi cảnh “né lũ” khi cơ sở hạ tầng được đầu tư cơ bản để thích ứng với lũ. Trong khi đó, lượng nước sông Mekong đổ về hạ nguồn ngày càng ít đi do các nước xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong. Lũ nhỏ, tình hình hạn, mặn ở ĐBSCL ngày càng khốc liệt. Nông dân trồng lúa Đông xuân và Hè thu phải gánh chi phí sản xuất nhiều hơn, nguy cơ rủi ro do thiên tai tăng lên.

Nông dân Hậu Giang dùng máy phun giống gieo sạ lúa - biện pháp này giúp nông dân tiết kiệm giống và phân rất lớn.

“Năm nào nghe báo chí đưa tin có lũ lớn ở đầu nguồn, nông dân ở đây mừng. Vì lũ lớn, nước ngọt nhiều sẽ đẩy được nước mặn. Ngược lại, lũ nhỏ, nông dân ở đây chịu thiệt thòi do hạn, mặn gây ra”, nông dân Huỳnh Văn Ba, ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh nói trong lo lắng. Hiện tại nhiều nông dân ở hạ nguồn sông Cửu Long đang tranh thủ thu hoạch lúa Thu đông (lúa vụ 3). Nhiều nông dân Hậu Giang thu hoạch bán lúa với giá 5.000 đồng/kg, đạt lợi nhuận trên 20 triệu đồng/ha. Điều đáng mừng là các địa phương ở ĐBSCL đã giảm đáng kể diện tích lúa vụ 3. Lúc cao điểm, diện tích lúa vụ 3 ở ĐBSCL lên đến 900.000ha. Giờ các địa phương chỉ còn sản xuất khoảng 650.000-700.000ha, giảm hơn 200.000ha. Đáng ghi nhận là diện tích lúa vụ 3 giảm mạnh ở Đồng Tháp, An Giang - hai địa phương có hệ thống đê bao khép kín lớn nhất vùng ĐBSCL. Khi bỏ canh tác lúa vụ 3, các địa phương sẽ mở đê lấy nước, dẫn phù sa cho đồng ruộng cũng là cách tính nước ngọt.

ĐBSCL có khoảng 1,7 triệu héc-ta đất lúa, hàng năm gieo trồng khoảng 4,2 triệu héc-ta lúa (3 vụ/năm). Trong đó, vụ lúa Đông xuân với khoảng 1,6 triệu héc-ta được xem là vụ lúa chính trong vùng. “Chúng tôi đã triển khai quyết liệt làm thủy lợi nội đồng, tuyên truyền để nông dân chuẩn bị vệ sinh đồng ruộng. Khi thuận lợi bơm rút nước, xuống giống nhanh vụ lúa Đông xuân”, ông Trần Chí Hùng, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang cho biết. Theo ông Trần Chí Hùng, hiện nay Cục Trồng trọt đã yêu cầu các sở NN&PTNT vùng ĐBSCL sẵn sàng phương án xuống giống sớm vụ lúa Đông xuân để né hạn, mặn trong mùa khô. Đây là điều hợp lý, vì lũ nhỏ và muộn đã tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập sớm.

Giúp nông dân giảm chi phí, tăng lợi nhuận

“Các tổ hợp tác, HTX, phòng nông nghiệp đã chuẩn bị nguồn giống xác nhận có phẩm cấp cao để cung cấp cho nông dân. Ngoài ra, các biện pháp canh tác kỹ thuật tiên tiến sẽ được triển khai để giúp nông dân áp dụng trên diện rộng. Đây được xem là hai giải pháp căn cơ để giúp nông dân giảm giá thành, tăng lợi nhuận trong vụ Đông xuân”, ông Trần Chí Hùng, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang, cho biết.

Theo tiến sĩ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, việc sử dụng công cụ và máy gieo lúa theo hàng, kỹ thuật sạ hàng là một đột phá trong kỹ thuật canh tác lúa đến nay đã được nông dân ĐBSCL ứng dụng khoảng 20% diện tích đem lại hiệu quả rất lớn: giảm 50% lượng hạt lúa giống (từ 200-250 kg/ha xuống còn 120 kg/ha). Bên cạnh đó, việc khuyến cáo giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật, tăng năng suất là giải pháp chủ lực cho chương trình 3 giảm - 3 tăng, 1 phải - 5 giảm. Riêng ở Nam bộ có khoảng 700.000ha trồng lúa áp dụng máy sạ hàng, tiết kiệm riêng về lúa giống: 100 kg/ha x 10.000 đồng/kg x 700.000ha = 700 tỉ đồng/năm.

Trong những năm gần đây, diện tích gieo trồng các nhóm giống lúa thơm, đặc sản ở ĐBSCL cải thiện đáng kể: Tăng từ 11,4% năm 2015 lên 17,5% vào năm 2018; giống lúa chất lượng cao từ 39,8% năm 2015 lên 41% vào năm 2018. Cụ thể, trong vụ Hè thu 2019, diện tích giống lúa thơm, đặc sản chiếm 24,8%; nhóm lúa chất lượng cao chiếm 44%, nhóm lúa chất lượng trung bình chiếm 19%, nhóm nếp chiếm 7,2% và các giống còn lại chiếm 50%. Trong thời gian qua, Viện Lúa ĐBSCL đã tăng cường công tác nghiên cứu để chọn tạo các giống lúa có chất lượng gạo và giá trị dinh dưỡng cao và có kết quả ban đầu rất tốt với giống lúa OM 8 và OM 9. Đây là hai giống lúa cho gạo ít bạc bụng, cơm mềm dẻo, vị ngọt và có mùi thơm đậm.

“Để nâng cao hơn nữa giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam, rất mong các doanh nghiệp xuất khẩu cần có sự hợp tác và đầu tư nhiều hơn nữa trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, áp dụng quy trình canh tác lúa phù hợp, lúa hữu cơ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Quan trọng hơn là đẩy mạnh hợp tác với các đơn vị nghiên cứu để tiếp nhận và quảng bá các giống lúa mới có phẩm chất tốt ra thị trường. Ngoài ra, cũng cần quan tâm hơn nữa đến các giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng và gạo chức năng, mặc dù thị phần không lớn, nhưng có giá trị kinh tế rất cao, mà chưa được quan tâm đúng mức”, tiến sĩ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL đề xuất.

Bài, ảnh: CAO PHONG

Kông Chro (Gia Lai): Phòng ngừa sâu keo mùa thu hại bắp

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Sâu keo mùa thu lần đầu tiên xuất hiện trên địa bàn huyện Kông Chro, Gia Lai đã khiến hàng ngàn héc ta bắp vụ 1 năm 2019 bị giảm năng suất. Rút kinh nghiệm, ngay sau khi xuống giống bắp vụ 2, cơ quan chức năng và người dân đã chủ động triển khai các giải pháp phòng trừ sâu keo mùa thu để bảo vệ mùa màng.

Theo báo cáo của Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Kông Chro, có đến hơn 2.332/6.725 ha bắp vụ 1 của huyện bị sâu keo mùa thu gây hại. Trong đó, diện tích phục hồi được là 55,9 ha, cày bỏ gần 83 ha, thu hoạch cây non làm thức ăn cho gia súc 8,3 ha và hơn 2.184 ha bị giảm năng suất 30-70%. Ông Nguyễn Quang Quốc-Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện-cho biết: “Ngay sau khi phát hiện sâu keo mùa thu hại bắp, cơ quan chuyên môn của huyện đã cử cán bộ xuống các địa phương để hỗ trợ, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng trừ. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên sâu keo mùa thu xuất hiện tại địa phương nên công tác phòng trừ của người dân còn gặp nhiều khó khăn, chưa đạt hiệu quả cao”.

Ông Nguyễn Quang Quốc-Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện bên một chiếc bẫy sâu keo mùa thu hại bắp. Ảnh: L.N

Cũng theo ông Quốc, nguyên nhân sâu keo mùa thu gây hại trên diện rộng là do người dân ít thăm đồng nên việc phát hiện và phòng trừ không kịp thời, trong khi loài sâu này rất nguy hiểm, có tập tính ăn mạnh, tốc độ sinh sản và lây lan nhanh. Bên cạnh đó, do thời gian xuống giống bắp không đồng loạt nên phần nào gây khó khăn cho công tác phòng trừ. Một số hộ dân cũng không thực hiện tốt công tác phòng trừ nên sâu keo mùa thu đã phát triển và lây lan. Việc sử dụng thuốc của người dân không theo nguyên tắc “4 đúng” (đúng thuốc, đúng thời điểm, đúng liều lượng, đúng cách) nên hiệu quả không cao. Ngoài ra, chính quyền các địa phương còn chủ quan, chưa đồng loạt tổ chức thực hiện công tác phòng trừ kịp thời và triệt để.

Để chủ động phòng trừ sâu keo mùa thu tái phát, ngay sau khi xuống giống bắp vụ 2, cơ quan chức năng của huyện và người dân đã triển khai nhiều biện pháp. Theo đó, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện đã phối hợp với Trung tâm Bảo vệ thực vật miền Trung tiến hành khảo nghiệm đặt 4 bẫy pheromone và 30 bẫy chua ngọt trên 4 ha bắp tại xã Yang Trung và thị trấn Kông Chro; đồng thời, hướng dẫn người dân tổ chức phun thuốc theo nguyên tắc “4 đúng”. Chị Trần Thị Thái (tổ 7, thị trấn Kông Chro) cho hay: “Vụ trước, diện tích bắp của nhà tôi bị sâu phá hoại, năng suất giảm hơn 50%. Vụ này, được cán bộ Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện xuống hỗ trợ đặt bẫy và hướng dẫn phun thuốc nên tôi thấy hiệu quả rõ rệt. Hiện cây bắp đã phát triển được 7-9 cặp lá và không bị sâu phá nữa”.

Chị Bùi Phong Tuyết-cán bộ kỹ thuật Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện-cho biết: Qua quá trình khảo nghiệm đặt bẫy pheromore và bẫy chua ngọt, chúng tôi nhận thấy, trung bình cứ sau 1 chu kỳ (2 ngày, 1 đêm) thì mỗi bẫy bắt được 5-20 con bướm đực. Việc loại trừ được bướm đực sẽ hạn chế quá trình giao phối với bướm cái và hạn chế bướm cái đẻ trứng trên đồng ruộng. Ngoài ra, Trung tâm đã hướng dẫn, tập huấn cho người dân chế tạo một số bẫy bướm trưởng thành như bẫy bả chua ngọt, bẫy đèn, bẫy cây trồng, bẫy dính màu vàng có pheromore và các phương pháp xử lý ngay khi phát hiện sâu. Nhờ đó mà vụ bắp này, người dân đã biết cách tự xử lý khi phát hiện sâu bệnh hại.

Người dân huyện Kông Chro phun thuốc phòng trừ sâu keo mùa thu. Ảnh: Lê Nam

Theo kế hoạch năm 2019, toàn huyện Kông Chro sẽ gieo trồng 10.660 ha bắp (10.150 ha bắp lai, 510 ha bắp giống địa phương). Trong đó, vụ 1 người dân đã trồng được 6.678 ha và còn lại vụ 2 sẽ trồng gần 4.000 ha. Đến nay, người dân trên địa bàn huyện đã xuống giống được hơn 1.261 ha bắp vụ 2. Ngoài các biện pháp phòng trừ sâu bệnh, trong vụ 2, người dân đã chủ động chuyển đổi những giống bị nhiễm bệnh sang trồng giống bắp biến đổi gen như: NK67Btgt, NK7328Btgt, CP501S có thể kháng bệnh và hạn chế sâu keo mùa thu. Ông Nguyễn Quang Quốc cho biết thêm: Thời gian tới, cơ quan chức năng của huyện tiếp tục vận động nhân dân đẩy mạnh xuống giống hết những diện tích còn lại; đồng thời, tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn người dân chủ động phun thuốc trừ sâu khi bắp ở giai đoạn 3-7 cặp lá. Chúng tôi cũng khuyến cáo người dân thường xuyên thăm đồng, nếu phát hiện có sâu keo mùa thu gây hại nhẹ thì cần chủ động tiêu hủy ổ trứng, diệt sâu non và báo cho cơ quan chuyên môn để có biện pháp phòng trừ kịp thời.

LÊ NAM

Nông dân Cư Jút chủ động chuyển đổi cây trồng thay diện tích hồ tiêu nhiễm bệnh

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Trước tình trạng dịch bệnh trên cây hồ tiêu tiếp tục diễn biến phức tạp, người dân huyện Cư Jút (Đắk Nông) đã chủ động chuyển đổi cây trồng thay thế phù hợp, không để hoang phí đất đai.

Hai giống đậu nành của Vinasoy được bảo hộ đều được phát triển từ giống bản địa của huyện Cư Jút. Ảnh tư liệu

Có gần 1 ha đất tại thôn 8, xã Đắk Wil, gia đình anh Phạm Doãn Kiên chọn hồ tiêu làm cây trồng để phát triển kinh tế. Thế nhưng, do khí hậu, thổ nhưỡng không phù hợp, nên cây tiêu sinh trưởng, phát triển chậm. Đến giữa năm 2018, nhiều cây tiêu bắt đầu xuất hiện tình trạng ủ rũ, dây héo. Một thời gian sau, lá cây tiêu bắt đầu chuyển sang màu vàng và rụng, chỉ còn trơ trọi cành. Sau đó, cây tiêu chết nhanh chỉ trong vòng vài tuần lễ.

Gia đình anh Kiên cũng không quan tâm đến việc “cứu” vườn tiêu vì giá cả hồ tiêu xuống thấp. Thay vào đó, anh Kiên quyết định chọn cây ăn quả thay thế. Sau khi nhổ bỏ toàn bộ vườn tiêu, anh xuống giống trồng quýt. Qua theo dõi, cây quýt tỏ ra phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương. Sau hơn 1 năm xuống giống, loại cây này sinh trưởng tốt và kì vọng sẽ mang lại nguồn thu nhập chủ lực cho gia đình.

Hộ anh Nguyễn Văn Thuận, cùng thôn 8, cũng chuyển đổi hơn 2 ha cây tiêu sang trồng xoài Đài Loan. Theo anh Thuận, trước tình trạng tiêu xuống giá quá thấp, những nông dân trồng tiêu như gia đình anh buộc phải chuyển đổi cây trồng. Nhiều hộ dân trong thôn lựa chọn cây hoa màu để nhanh chóng có thu nhập. Tuy nhiên, gia đình anh chọn cây ăn quả vì điều kiện tự nhiên ở địa phương phù hợp và giá cả thời gian gần đây ổn định hơn.

Nhiều người dân xã Đắk Wil (Cư Jút) chủ động chuyển đổi các vườn hồ tiêu sang trồng xoài

Theo Phó Chủ tịch UBND xã Đắk Wil Nguyễn Minh Tâm, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng ở địa phương phù hợp với việc phát triển các loại cây ăn quả. Sau nhiều năm đầu tư, hồ tiêu sinh trưởng và phát triển kém, giá cả lại không như mong muốn, nên nhiều người dân địa phương đã quay lại với cây ăn quả. Địa phương cũng đang xúc tiến xây dựng các tổ hợp tác sản xuất cây ăn quả an toàn nhằm góp phần tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm trái cây tại địa phương.

Tại xã Cư K’nia, diện tích hồ tiêu tăng nhanh do giá cả hồ tiêu “lên đỉnh” cách đây vài năm. Nhiều hộ gia đình đã có nguồn thu nhập đáng kể, xây dựng được nhà cửa khang trang do “trúng” tiêu. Nhưng từ đầu năm 2018 tới nay, giá tiêu “xuống dốc không phanh” khiến người dân trồng tiêu chán nản. Trong khi đó, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp nên nhiều người trồng tiêu đã bỏ bê vườn cây. Thống kê của xã cho thấy, có gần 150 ha hồ tiêu trên địa bàn xã bị thiệt hại từ 30% trở lên, trong đó chủ yếu thiệt hại trên 70%.

Gần 1.100 ha hồ tiêu bị nhiễm bệnh, thiệt hại từ 30 - 70%

Theo rà soát của Phòng Nông nghiệp - PTNT huyện Cư Jút, từ đầu năm 2018 tới cuối tháng 7/2019, toàn huyện có trên 600 ha hồ tiêu bị thiệt hại trên 70% và gần 500 ha bị thiệt hại từ 30 - 70%. Hơn 200 ha cây tiêu chết hoàn toàn do bị nhiễm các bệnh chết nhanh, chết chậm. Ngành Nông nghiệp địa phương đã mở nhiều lớp tập huấn cho hàng trăm nông dân về các biện pháp sinh học, phòng trừ tổng hợp để ngăn chặn dịch bệnh trên cây tiêu. Tuy nhiên, do giá cả hồ tiêu xuống thấp nên bà con bỏ bê vườn tiêu khiến cho diện tích tiêu chết tiếp tục tăng lên.

Theo Phó Chủ tịch UBND xã Cư K’nia Lê Lương Kế, sau khi tiêu nhiễm bệnh và bị thiệt hại, nhiều hộ dân đã quyết định nhổ bỏ những cây tiêu chết để trồng xen trong rẫy các loại cây ngắn ngày như bắp, đậu, khoai lang… Cũng có nhiều gia đình có diện tích tiêu chết đã quyết định nhổ bỏ cả vườn tiêu, chuyển đổi toàn bộ sang trồng cây ăn quả.

Ông Hồ Sơn, Trưởng Phòng Nông nghiệp - PTNT huyện Cư Jút cho biết, sau khi xảy ra dịch bệnh trên hồ tiêu, người dân địa phương đã chuyển đổi gần 200 ha hồ tiêu sang trồng các loại cây khác, chủ yếu là cây ăn quả (khoảng 150 ha). "Chúng tôi rất mừng vì bà con chủ động tái cơ cấu cây trồng theo hướng tích cực, lựa chọn cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương. Hy vọng trong thời gian tới, các loại cây trồng này sẽ giúp người dân địa phương có nguồn thu nhập ổn định, góp phần giúp người dân vươn lên làm giàu", ông Hồ Sơn phấn khởi cho biết.

Bài, ảnh: Lê Phước

Chuyện làm giàu của anh Nghĩa

Nguồn tin:  Báo Quảng Bình

Với đôi bàn tay trắng cùng ý chí cần cù, chịu khó, người nông dân Nguyễn Ngọc Nghĩa (SN 1973), thôn Phú Lộc 2, Quảng Phú (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) đã biến vùng đất ruộng kém hiệu quả thành trang trại kinh tế tổng hợp mang lại lợi nhuận 300-400 triệu đồng/năm. Anh chia sẻ, làm giàu là cả một quá trình dài và khó khăn, nếu không học hỏi và có sự kiên trì, nhẫn nại thì thành quả sẽ không bao giờ đến.

Quảng Phú là xã thuần nông. Ở đây, ngoài nghề đi biển đánh bắt xa bờ thì sản xuất nông nghiệp là ngành chủ đạo của địa phương. Hầu hết, những người sống dựa vào nông nghiệp kinh tế chỉ đủ ăn. Nếu chỉ làm ruộng ở vùng đất này thì khó mà làm giàu. Suy nghĩ đó đã thôi thúc người nông dân Nguyễn Ngọc Nghĩa tìm ra những hướng phát triển kinh tế phù hợp.

Anh Nghĩa chia sẻ, trang trại tổng hợp của anh trước đây là vùng đất ruộng kém hiệu quả, người dân bỏ đất hoang nhiều. Nhận thấy tiềm năng của những mảnh ruộng kém màu mỡ này, anh đã mạnh dạn mua lại của người dân xung quanh để thực hiện ước mơ mở trang trại của mình.

Với diện tích đất ruộng do bố mẹ để lại cùng với những mảnh ruộng mua thêm, anh có trong tay trang trại rộng 4,3ha. Bởi đất ruộng kém màu mỡ nên anh đã nghĩ ngay đến việc làm mô hình trang trại chăn nuôi tổng hợp.

Lò ấp trứng vịt lộn của trang trại anh Nguyễn Ngọc Nghĩa.

Anh cho biết, năm 2016, sau sự cố ô nhiễm môi trường biển, nhiều người dân sợ cá biển nhiễm độc nên chuyển sang ăn cá nước ngọt. Thời điểm đó, anh nuôi 3 ao nước ngọt, mỗi ao thả khoảng 2.000 con cá, với các loại, như: chép, mè, đến lúc thu hoạch, thương lái đến thu mua tận ao, nhiều khi không có đủ cá để bán.

Đó là thời kỳ nuôi cá nước ngọt hiệu quả nhất của trang trại anh. Tuy nhiên, những năm trở lại đây, khi cá biển an toàn và người dân sử dụng trở lại thì cá nước ngọt xuất bán ngày càng khó khăn hơn.

Không chấp nhận cảnh ngồi chờ may mắn, nhận thấy nhu cầu tiêu thụ cá nước mặn tăng cao, trong khi trang trại lại nằm sát sông Loan, anh Nghĩa đã nghĩ đến việc chuyển sang nuôi thêm cá nước mặn. Anh cùng vợ và con trai đào thêm một ao nuôi cá và dẫn nước từ sông Loan vào để nuôi thêm cá mú.

“Do mới nuôi thủ nghiệm nên tôi chỉ đào một ao nuôi, nếu hiệu quả và không dịch bệnh, sắp tới, tôi sẽ mở rộng ao để nuôi thêm cá nước mặn. Sau lứa đầu tiên nuôi thử nghiệm, đầu ra cho cá nước mặn dễ mà hiệu quả kinh tế gấp nhiều lần so với cá nước ngọt”, anh Nghĩa cho hay.

Ngoài nuôi cá, anh còn chăn nuôi thêm bò, gà và bồ câu lấy thịt. Không dừng lại ở mô hình chăn nuôi tổng hợp, anh Nghĩa còn tự mình tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm của các chủ trang trại khác để phát triển thêm các mô hình khác cho trang trại của mình. Sau những chuyến đi học hỏi, anh quyết định mua 3 lò ấp trứng vịt lộn.

Anh tâm sự: “Nếu chỉ dựa vào chăn nuôi tổng hợp thì lợi nhuận kinh tế hàng năm mang lại không cao nên tôi suy nghĩ phải phát triển thêm mô hình kinh tế khác. Thời điểm đó, trên địa bàn huyện Quảng Trạch, Ba Đồn, số lò ấp trứng vịt lộn còn chưa nhiều, nếu mở lò ấp trứng sẽ tìm được thị trường tiêu thụ lớn.

Từ suy nghĩa đó, tôi mua luôn 3 lò ấp trứng về. Tận dụng diện tích trang trại sẵn có, tôi nuôi 2.500 con vịt đẻ để có thể tự cung cấp nguồn trứng ấp mỗi ngày cho lò ấp. Trung bình mỗi ngày, 3 lò ấp này giúp tôi xuất bán được 1.700 quả trứng lộn”.

Tất cả kỹ thuật nuôi và ấp trứng vịt lộn đều được anh tìm hiểu trên các tạp chí, internet. Với nguồn trứng an toàn, tin cậy nên trứng vịt lộn của trang trại anh được các thương lái đến thu mua tận nơi. Thành công của mô hình lò ấp trứng lộn này đã giúp trang trại tổng hợp của anh thu về tổng lợi nhuận 300-400 triệu đồng/năm.

Ông Lê Thanh Chung, Chủ tịch Hội Nông dân xã Quảng Phú cho biết, mô hình kinh tế trang trại tổng hợp của anh Nguyễn Ngọc Nghĩa là một trong những mô hình kinh tế làm giàu tiêu biểu của Hội Nông dân xã Quảng Phú.

Với tính cần cù, chịu khó lao động, anh Nghĩa đã biến vùng ruộng kém màu mỡ thành trang trại chăn nuôi có giá trị kinh tế cao. Đây thực sự là mô điển hình nông dân sản xuất giỏi để người nông dân trong xã học hỏi và làm theo.

Đ.N

Sản xuất ống hút bột gạo ở miền Tây

Nguồn tin:  VnExpress

Mỗi ngày, công ty của ông Võ Minh Khang sản xuất gần một triệu ống hút bột gạo, xuất khẩu đi các nước châu Âu, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Gần một năm nay, xưởng sản xuất của một công ty thực phẩm ở Sa Đéc (TP Sa Đéc, Đồng Tháp) tất bật cho ra lò loại ống hút từ bột gạo, thay thế ống hút nhựa truyền thống.

"Khi đi thực tế ở các nước, tôi thấy người tiêu dùng không còn chuộng ống hút nhựa vì gây ô nhiễm môi trường nên cùng các kỹ sư nghiên cứu và sản xuất ra ống hút gạo thân thiện với môi trường", ông Võ Minh Khang, Tổng giám đốc công ty, cho biết.

Theo ông Khang, nguyên liệu làm ống hút được công ty nhập trực tiếp từ làng bột truyền thống Sa Đéc, với khoảng 5 tấn bột gạo mỗi ngày.

Bột gạo được cho vào máy trộn đều, đánh tan cho mịn, sau đó bỏ lên các khay và đẩy vào máy hấp. Đây là một trong những khâu đầu tiên, quyết định chất lượng sản phẩm.

Bột hấp chín được cho vào máy tạo hạt. "Khó nhất là làm sao gia cố để bột bền hơn, chống gãy, giòn nên phải tìm ra được công thức chuẩn để xử lý mà không được dùng hoá chất. Sau nhiều lần thử nghiệm, công ty đã tìm ra được công thức riêng để có sản phẩm chất lượng", ông Khang nói.

Từ những hạt bột khi qua máy kéo ống sẽ tạo thành những ống hút dài khoảng 3-4 m, sau đó được công nhân cắt thành từng khúc.

Mỗi bó ống hút gạo được công nhân treo trên dây phơi trước khi cắt nhỏ thành các khúc. Thời gian phơi tại xưởng từ 6 đến 12 tiếng.

Công nhân duỗi thẳng từng ống hút gạo.

Ngoài màu trắng, ống hút gạo còn có thêm các màu cam, xanh, tím... được chiết xuất từ các loại rau củ quả, cụ thể: màu đen của mè đen, màu tím từ củ dền, màu xanh của lá mùng tơi...

Ống hút phơi khô được cho vào máy cắt nhỏ thành nhiều đoạn ngắn.

Ống hút gạo phân hủy trong vòng 3 tháng, có thể bảo quản trong môi trường bình thường khoảng 18 tháng. Ống hút giữ nguyên dạng trong môi trường nước thường và nước lạnh từ 30 đến 120 phút.

Được làm từ nguyên liệu tự nhiên nên ống hút có thể ăn được, tuy nhiên nhà sản xuất khuyến cáo không nên sử dụng ống hút gạo quá nhiều trong ngày.

Các công nhân phân loại, đóng gói sản phẩm.

Trung bình một kg bột gạo sản xuất được 50-100 ống hút tùy kích cỡ. Hiện công ty sản xuất nhiều loại như ống hút nước, ống hút sinh tố, ống hút trà sữa... Loại ống hút nước có giá bán lẻ khoảng 50.000 đồng một bịch (gồm 80 ống hút). Sản phẩm hiện được xuất sang các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước châu Âu với doanh thu 2 - 3 tỷ đồng mỗi tháng.

Quỳnh Trần

Nghệ An: Giá thịt lợn hơi tăng cao, chạm mốc 60.000 đồng/kg

Nguồn tin: Báo Công Thương

Đại dịch tả lợn châu Phi bùng phát trở lại, giá thit lợn hơi xuất chuồng vẫn tiếp tục tăng chóng mặt và đến thời điểm hiện tại đã tăng 50% so với năm trước. Tại Nghệ An, giá lợn xuất chuồng chạm mốc 60.000 đồng/kg.

Ghi nhận của phóng viên Báo Công Thương, từ đầu tháng 10 đến nay, giá thịt lợn tại Nghệ An liên tục tăng, giá lợn hơi xuất chuồng được điều chỉnh liên tục, mỗi ngày tăng vài ba giá.

Thời điểm này người chăn nuôi không mặn mà với việc tái đàn sẽ đẩy giá lợn hơi tăng cao

Cụ thể, trong tháng 9, giá lợn hơi tăng lên mức khá cao, dao động từ 43.000 – 49.000 đồng/kg. Tranh thủ cơ hội này, người chăn nuôi nhanh chóng xuất chuồng để giảm đàn, trước nguy cơ dịch bệnh lan nhanh trên diện rộng.

Từ ngày 8/10, giá lợn hơi ở Nghệ An tăng mạnh, tiến gần đến mốc 60.000 đồng/kg, cao nhất từ năm 2016 tới nay.

Giá thịt lợn hơi xuất chuồng đang tăng phi mã, kéo theo đó, giá thịt lợn tại các chợ cũng đua nhau tăng mạnh. Hiện tại các chợ trên địa bàn, giá thịt lợn các loại dao động từ 100.000 -150.000 đồng/kg tùy loại.

Giá thịt lợn tăng cao do dịch tả lợn Châu Phi

Theo bà Trần Thị Mỹ Hà - Trưởng phòng quản lý thương mại - Sở Công Thương Nghệ An: Đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh, giá thịt lợn tăng cao 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện tại nguồn cung trên địa bàn chưa thiếu nhưng từ giờ đến thời điểm Tết Nguyên đán, Sở cũng đã tính đến việc sẽ có các biện pháp bình ổn hàng hóa Tết như tiếp tục có phương án dự trữ ở các kho đông lạnh, chủ động liên kết với các đơn vị có nguồn hàng đảm bảo, bù đắp lượng thịt lợn thiếu hụt bằng các loại thịt gà, trâu, bò, thủy sản...

Theo nhận nhận định, với đà tăng như hiện nay, thịt lợn hơi xuất chuồng có thể chạm mốc 70.000 đồng/kg trong vài ngày tới. Có nhiều lý do dẫn đến giá lợn hơi được đẩy lên cao như cơ cấu thịt lợn vẫn chiếm 70% thực phẩm trong bữa ăn của người Việt; giá lợn hơi tại các công ty chăn nuôi lớn tăng; nguồn cung thịt lợn đang giảm do ảnh hưởng từ dịch tả lợn Châu Phi và thông tin thị trường Trung Quốc bắt đầu mở cửa trở lại cho việc mua lợn sống theo đường tiểu ngạch...

Hoàng Trinh

Tăng cường công tác phòng, chống cúm gia cầm

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Vừa qua, UBND tỉnh Đồng Tháp có công văn gửi đến các sở, ngành và địa phương về tăng cường công tác phòng, chống cúm gia cầm trên địa bàn tỉnh.

UBND tỉnh Đồng Tháp yêu cầu các địa phương cần tăng cường công tác phòng chống dịch cúm gia cầm

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), từ đầu năm đến nay, bệnh cúm gia cầm (do các chủng vi rút cúm A/H5N1 và A/H5N6) đã xảy ra tại 11 tỉnh, thành phố trên cả nước; số gia cầm buộc phải tiêu hủy trên 23.000 con. Bên cạnh đó, kết quả giám sát chủ động cho thấy tỷ lệ lưu hành vi rút cúm gia cầm tương đối cao (khoảng 2% tổng số mẫu xét nghiệm).

Riêng tại tỉnh Đồng Tháp, từ năm 2005 đến nay đã xảy ra 6 trường hợp người tử vong do nhiễm cúm A/H5N1, kết quả giám sát lưu hành của vi rút cúm gia cầm trên địa bàn tỉnh là 16,67%. Dự báo trong các tháng cuối năm 2019, nguy cơ dịch bệnh cúm gia cầm có thể xuất hiện do thời tiết bất lợi, mật độ chăn nuôi cao, lượng vận chuyển gia cầm tăng mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh phát triển, lây lan, nhất là thời điểm trước Tết Nguyên Đán.

Để chủ động trong công tác phòng chống dịch cúm gia cầm, UBND tỉnh yêu cầu Sở NN&PTNT cần chủ động phối hợp với các ngành liên quan, UBND huyện, thị, thành phố tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân thực hiện đăng ký hoạt động chăn nuôi, tiêm phòng định kỳ, vệ sinh tiêu độc, khử trùng và các biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia cầm… Đồng thời, thực hiện nghiêm kế hoạch tiêm phòng và phòng, chống dịch bệnh đợt 2 năm 2019; chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan tăng cường công tác kiểm tra về phòng, chống dịch bệnh cúm gia cầm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, Sở NN&PTNT cần chỉ đạo Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản cung cấp đầy đủ các loại vật tư, vắc xin phục vụ công tác tiêm phòng cúm gia cầm đợt 2 năm 2019; hướng dẫn kỹ thuật tiêm phòng, kỹ thuật sử dụng, bảo quản vắc xin và xử lý các tình huống trong quá trình tiêm phòng; kịp thời đề xuất các giải pháp để chủ động phòng, chống dịch bệnh cúm gia cầm đạt hiệu quả. Phân công cán bộ chuyên môn tăng cường giám sát dịch bệnh trên địa bàn tỉnh; phối hợp, hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch; huy động tối đa nguồn lực của địa phương để nhanh chóng xử lý các ổ dịch, triển khai các biện pháp phòng chống dịch theo quy định, không để dịch lây lan diện rộng.

Đối với UBND các huyện, thị, thành phố, UBND tỉnh yêu cầu các địa phương cần chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện nghiêm kế hoạch tiêm phòng và phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi năm 2019. Chỉ đạo ngành chuyên môn cấp huyện, UBND cấp xã kiện toàn lực lượng; tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân, để mọi người hiểu rõ hiệu quả của việc tiêm phòng cho đàn gia cầm. Chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống dịch; thẩm định và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND Tỉnh về kết quả tiêm phòng, tình trạng kinh doanh, vận chuyển gia cầm, sản phẩm gia cầm làm lây lan dịch bệnh gây mất an toàn vệ sinh thực phẩm hoặc xảy ra trường hợp có người bị nhiễm cúm gia cầm trên địa bàn quản lý. Rà soát, bố trí tạm thời các điểm mua bán, giết mổ gia cầm sống, sản phẩm gia cầm đúng theo quy định, đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.

Đối với các trường hợp hộ chăn nuôi không chấp hành việc tiêm phòng và áp dụng các biện pháp phòng bệnh bắt buộc cho vật nuôi theo quy định sẽ không được hưởng hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước khi có dịch bệnh xảy ra; thực hiện vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng trại theo hướng dẫn của nhân viên thú y.

Mỹ Lý

Bình Phước: Gà thả vườn Thanh Lương khẳng định được thương hiệu

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Gà thả vườn của hàng ngàn hộ nuôi ở xã Thanh Lương, thị xã Bình Long (tỉnh Bình Phước) vừa được Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể. Đây là điều kiện thuận lợi để nghề nuôi gà ở Thanh Lương phát triển, nâng cao giá trị chất lượng, thương hiệu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

Thanh Lương là xã khá nổi tiếng về quy mô chăn nuôi gà thả vườn lớn và đang hướng tới sản xuất sạch, bền vững, mang thương hiệu riêng không chỉ thị xã Bình Long mà còn ở Bình Phước. Hiện nay, tổng đàn gà trên địa bàn xã lên đến hàng triệu con với khoảng 3.500 hộ chăn nuôi theo hình thức thả vườn. Trong đó, rất nhiều hộ nuôi với quy mô trên 20 ngàn con. Con số này tuy chưa lớn so với các trại gà CP của Thái Lan nhưng Thanh Lương là xã có đàn gà thả vườn lớn nhất Bình Phước hiện nay.

Người đầu tiên đặt nền móng cho phong trào nuôi gà thả vườn ở xã Thanh Lương phát triển là ông Ngô Việt Tiến, trú ấp Thanh Bình, hiện là Giám đốc Hợp tác xã nuôi gà Thanh Bình. Gia đình ông Tiến đang có 27 dãy chuồng nuôi theo quy trình VietGAP với tổng đàn hơn 170 ngàn con gà. Ông Tiến cho biết: Tôi đam mê nghề chăn nuôi, nhất là nuôi gà. Đầu năm 2007, sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, tôi bắt đầu làm kinh tế bằng nuôi gà theo mô hình thả vườn.

Một trại nuôi gà của người dân ở xã Thanh Lương (Bình Long)

Để có kết quả như hôm nay, ông Tiến đã trải qua đôi lần thất bại. Nguyên nhân là do chưa nắm rõ hết kỹ thuật, quy trình chăm sóc và nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, nhờ chịu khó học hỏi kinh nghiệm nên sau hơn 1 năm, công việc chăn nuôi của ông đạt kết quả tốt, dần đi vào ổn định. Đến năm 2009, ông nuôi gà quy mô lớn; đồng thời nhiệt tình hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật các hộ trong xã đầu tư nuôi gà thả vườn. Từ đó, phong trào nuôi gà tại xã Thanh Lương phát triển mạnh. Chính cách làm này đã thay đổi tập quán chăn nuôi nhỏ lẻ của người dân Thanh Lương lúc bấy giờ.

Cũng là một trong những nông hộ nuôi gà nhiều năm ở Thanh Lương, trại gà của gia đình ông Đặng Xuân Chinh, ấp Thanh Trung có quy mô 40.000 con/năm. Chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP, ông Chinh tuân thủ mọi quy trình được hướng dẫn. Đó là con giống phải có xuất xứ rõ ràng, trước khi thả được kiểm dịch, đảm bảo sạch bệnh và có sức khỏe tốt. Quá trình nuôi được ứng dụng công nghệ sinh học, sử dụng các chủng vi sinh vật có lợi nhằm cải tạo môi trường, hạn chế dịch bệnh. Ông Chinh cho biết, mỗi lứa gà nhập chuồng, ông đều có sổ sách theo dõi từ quy trình sử dụng thuốc phòng bệnh đến thức ăn chăn nuôi. Chất thải trước khi xả ra môi trường đều được kiểm soát. Kết quả cho thấy, đàn gà phát triển tốt, đạt tỷ lệ sống cao, môi trường nuôi ổn định, hạn chế tối đa mầm bệnh và dịch bệnh. Chăn nuôi sạch, an toàn và quy mô lớn đem lại hiệu quả cao gấp đôi so với nuôi thả truyền thống. Tuy nhiên, khó khăn nhất của các nông hộ nuôi gà là chưa tìm được đầu ra ổn định.

Hiện nay, trên địa bàn xã Thanh Lương có hơn 10 giống gà khác nhau, trong đó giống gà được các hộ dân lựa chọn nuôi nhiều nhất là gà Bình Định và Cao Khanh bởi cho năng suất cao hơn. Tuy nhiên, người chăn nuôi ở đây đang có những biện pháp tuyển chọn, lai tạo giống gà mới có ưu thế vượt trội để tạo thương hiệu riêng cho Thanh Lương. Làm được điều đó rất cần sự liên kết với các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp để xây dựng thương hiệu gà địa phương, vừa đảm bảo ổn định đầu ra, góp phần giúp người dân yên tâm chăn nuôi. Vì vậy, từ năm 2016-2019, Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp chính quyền và Hội Nông dân xã Thanh Lương thẩm định, xây dựng nhãn hiệu tập thể gà thả vườn Thanh Lương. Trong quý 3/2019, Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể gà thả vườn cho Hội Nông dân xã Thanh Lương.

Với nhãn hiệu tập thể này, sản phẩm gà thả vườn và người chăn nuôi ở xã Thanh Lương đã có cơ hội bảo vệ được quyền, lợi ích chính đáng của mình. Đồng thời, đây còn là điều kiện để các hộ chăn nuôi gà trên địa bàn xã mở rộng quy mô, tăng cường đầu tư vốn và ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh. Ngoài ra, việc được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể cho gà thả vườn Thanh Lương còn tạo ra lòng tin và có chỗ đứng vững chắc đối với người tiêu dùng trong, ngoài tỉnh về sản phẩm đặc thù của địa phương.

Gia Nghi

Thiết lập Khu bảo tồn đất ngập nước: Hài hoà giữa bảo tồn và phát triển

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Thành lập Khu bảo tồn đất ngập nước (ĐNN) Tam Giang - Cầu Hai (tỉnh Thừa Thiên Huế) là rất cần thiết. Song để tránh xung đột giữa bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi tính toán phân khu, vùng hợp lý, tạo được sự đồng thuận của cư dân.

Một trong những loài chim đặc hữu được phát hiện ở khu vực đầm Cầu Hai

Đa dạng

Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai gồm 7 kiểu ĐNN: thảm cỏ biển; bãi vùng gian triều; rừng ngập mặn; vùng nước cửa sông; đầm phá ven biển; ao, hồ, đầm nuôi trồng thủy sản và đất canh tác nông nghiệp.

Theo Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (TN&MT), Viện TN&MT biển khi thực hiện điều tra, khảo sát xây dựng Khu bảo tồn ĐNN Tam Giang - Cầu Hai, tổng số loài sinh vật trong hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai rất phong phú, với 1.296 loài thuộc các nhóm: thực vật (bậc cao, phù du, rong và thực vật, thủy sinh), chim, bò sát, lưỡng cư, cá, động vật phù du, thân mềm, giáp xác, giun nhiều tơ.

Nhờ tính đa dạng các kiểu hệ sinh thái ĐNN, cùng với sự biến đổi môi trường phức tạp đem lại sự đa dạng cao về số loài sinh vật trong khu vực.

Theo những ngư dân vùng đầm phá, mấy năm trở lại đây, một số loài tôm, cá đặc hữu dọc vùng ven phá, cửa sông xuất hiện trở lại và có một số loài xuất hiện khá nhiều, như các loại cá bống, nâu, tràng, ong...; tôm rảo, tôm rằn, cua…Rong câu ở một số vùng đầm phá phát triển nhiều và cũng là điều kiện để các loài động, thực vật thủy sinh khác phục hồi, sinh sôi.

Tuy có sự phục hồi của một số loài, song hiện khu ĐNN đang chịu tác động bởi nhiều áp lực: từ các hoạt động kinh tế của cộng đồng địa phương như: nuôi trồng, khai thác thủy sản, phát triển du lịch, chăn nuôi gia súc gia cầm, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; từ các công trình như đập ngăn mặn, bến cảng và biến đổi khí hậu.

Vùng cửa sông Ô Lâu là nơi di trú của nhiều loài chim

Theo chuyên gia của Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT, sau thời gian từ khi bắt đầu thiết kế dự án đến điều tra thực tế, đã có nhiều thay đổi, như rùa biển xuất hiện, nhưng số loài chim lại giảm đi, trong khi đó các loài sinh vật ngoại lai như ốc bươu vàng, bèo tây, mai dương phát triển mạnh.

Điều chỉnh, đảo vùng hợp lý

Khu bảo tồn ĐNN Tam Giang - Cầu Hai dự kiến thành lập theo 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 (2019-2020) có diện tích 2.033,8ha; trong đó: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 813,3ha, phân khu phục hồi sinh thái là 1.203,4ha, phân khu hành chính dịch vụ 17ha; chia làm 3 phân vùng chính: Ô Lâu, Cồn Tè - Rú Chá và các khu bảo vệ thủy sản hiện có. Hiện, Sở TN&MT đang phối hợp với Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT, Viện TN&MT biển cùng chính quyền các cấp rà soát, bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện hồ sơ dự án thành lập khu bảo tồn.

Theo ông Nguyễn Việt Hùng, Chi cục Trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường tỉnh, ngoài mục tiêu hướng đến phát triển bền vững nguồn lợi, tiến tới phục hồi nguyên trạng các giá trị về đa dạng sinh học và các chức năng hệ sinh thái, khu bảo tồn ĐNN còn cần sự tham gia của cộng đồng, cùng chia sẻ lợi ích. Vì vậy, việc thành lập khu bảo tồn này cần kết hợp bảo tồn với phát triển kinh tế như thế nào cho hài hòa, hợp lý, dựa trên những lợi thế của từng vùng đầm phá.

Trong quá trình phối hợp với đơn vị tư vấn rà soát để hoàn thiện dự án thành lập Khu bảo tồn ĐNN Tam Giang- Cầu Hai, Sở TN&MT ghi nhận phát sinh vướng mắc vì có một số khu vực chồng lấn, đụng đến diện tích khu bảo vệ nghiêm ngặt và vùng phục hồi sinh thái của Khu bảo tồn ĐNN đang thiết lập, như ở Rú Chá (Hương Phong, TX. Hương Trà), khu bảo vệ thủy sản hòn núi Quện (Lộc Bình, Phú Lộc), ven phá xã Lộc Điền (Phú Lộc). Trong đó, dự án xây dựng Khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng vui chơi Rú Chá của Công ty TNHH Rạp chiếu phim - Thể thao và giải trí Ngôi sao Huế được UBND tỉnh thống nhất chủ trương đầu tư đang nghiên cứu triển khai có diện tích chồng lấn phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Khu bảo tồn ĐNN Tam Giang - Cầu Hai khoảng 19ha và cũng là phần chồng lấn theo phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của TX. Hương Trà đã được UBND tỉnh phê duyệt.

Đối với sự chồng lấn này, qua rà soát, theo Sở TN&MT có thể điều chỉnh; đồng thời đề xuất đưa diện tích rừng ngập mặn ở xã Quảng Lợi vào vùng bảo vệ nghiêm ngặt, thay thế diện tích bị chồng lấn ở Rú Chá.

Ông Nguyễn Việt Hùng cho rằng, hiện nay, trên địa bàn tỉnh phần diện tích rừng trồng ngập mặn được mở rộng rất lớn trên đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Sở TN&MT nhận thấy cần thiết phải bổ sung phần diện tích rừng trồng ngập mặn này vào các phân khu chức năng để được bảo tồn và phát huy hết giá trị của đầm phá khi khu bảo tồn được thành lập.

Bài, ảnh: Hoài Thương

Chương trình bảo tồn các loài rùa nguy cấp

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt "Chương trình bảo tồn các loài rùa nguy cấp của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030".

Mục tiêu của Chương trình là các quần thể rùa nguy cấp của Việt Nam và môi trường sống của chúng được bảo vệ và phát triển bền vững, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam.

Các mục tiêu cụ thể đối với công tác bảo tồn các loài rùa nguy cấp của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 gồm: 1- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo tồn các loài rùa nguy cấp; 2- Tăng cường các hoạt động điều tra, đánh giá, nghiên cứu về các loài rùa nguy cấp, đặc biệt đối với các loài rùa nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; 3- Xây dựng mô hình, thiết lập, quản lý hiệu quả các khu vực bảo vệ; công tác cứu hộ; nhân nuôi bảo tồn các loài rùa nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ được thực hiện hiệu quả; 4- Tăng cường hiệu quả công tác quản lý và thực thi pháp luật về bảo tồn các loài rùa nguy cấp; 5- Nâng cao nhận thức và sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động bảo tồn các loài rùa nguy cấp.

Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ phải triển khai trong thời gian tới là rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật, hướng dẫn kỹ thuật về bảo tồn các loài rùa nguy cấp; tăng cường các hoạt động điều tra, đánh giá, nghiên cứu về các loài rùa nguy cấp; xây dựng mô hình, thiết lập, quản lý hiệu quả các khu vực bảo vệ; duy trì, phục hồi quần thể; hỗ trợ công tác cứu hộ; nhân nuôi bảo tồn các loài rùa nguy cấp; tăng cường hiệu quả công tác quản lý và thực thi pháp luật về bảo tồn các loài rùa nguy cấp; tuyên truyền, phổ biến pháp luật, truyền thông nâng cao nhận thức về bảo tồn, ngăn ngừa các hoạt động săn bắt, buôn bán trái phép các loài rùa nguy cấp.

Thành lập 2 trạm cứu hộ rùa biển

Trong đó, Chương trình sẽ thành lập 3 khu bảo tồn loài và sinh cảnh mới cho các loài rùa cạn và rùa nước ngọt nguy cấp (Dự kiến triển khai đối với: các quần thể loài rùa Trung bộ (Mauremys annamensis) tại khu vực huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; rùa Hoàn Kiếm (Rafetus swinhoei) tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội và nhóm các loài rùa hộp thuộc giống Cuora tại khu vực huyện Đông Hòa và Tây Hòa, tỉnh Phú Yên).

Đồng thời, xây dựng, thực hiện các dự án phục hồi quần thể đối với một số loài rùa cạn và rùa nước ngọt thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Dự kiến lựa chọn triển khai tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Hà Nội, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên và Khánh Hòa); bảo vệ, phục hồi sinh cảnh, bãi đẻ cho các loài rùa biển, tập trung tại các khu vực: Bái Tử Long và Cô Tô - Thanh Lân (Quảng Ninh), Hải Lăng (Quảng Trị), Núi Chúa (Ninh Thuận), Cam Lâm (Khánh Hòa), Hòn Khô - Hải Giang (Bình Định), Hòn Cau (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) và Thổ Chu (Kiên Giang) và phục hồi bãi đẻ, nơi sinh cư của rùa biển bị suy thoái tại các khu vực: Bạch Long Vỹ (Hải Phòng), Phú Quý (Bình Thuận), Phú Quốc (Kiên Giang) và quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa).

Cùng với đó, thành lập và vận hành 2 trạm cứu hộ rùa biển tại các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Khánh Hòa.

Phương Nhi

Voi rừng xuất hiện phá hoại cây trồng của người dân tại xã Ea Pô

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Sáng 6/10, ông Đinh Công Xoan, Chủ tịch UBND xã Ea Pô, huyện Cư Jút (Đắk Nông) cho biết, trên địa bàn xã vừa xuất hiện đàn voi rừng phá hoại một số cây trồng của người dân. Hiện nay, đàn voi này đã trở về rừng, không còn gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân địa phương.

Trước đó, chiều 4/10/2019, người dân ở thôn Ba Tầng, xã Ea Pô phản ánh về việc có nhiều voi rừng xuất hiện phá hoại cây trồng. Nhận được thông tin, UBND xã Ea Pô đã cử cán bộ phối hợp với các ngành chức năng huyện Cư Jút tiến hành kiểm tra, xác minh. Tại hiện trường ở thôn Ba Tầng, đoàn xác minh đã chứng kiến dấu chân voi và một số cây chuối của người dân đã bị đàn voi phá hoại. Theo biên bản làm việc của đoàn xác minh, đàn voi không gây thiệt hại lớn về tài sản và người. Hiện nay, đàn voi rừng này đã di chuyển vào rừng.

Đoàn xác minh cũng khuyến cáo người dân không nên tiếp cận đàn voi rừng. Nếu phát hiện có voi thì người dân cần nhanh chóng trình báo cho cơ quan chức năng.

Phan Tuấn

Còn 8 đợt triều cường tại các tỉnh ven biển Nam Bộ

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Những tháng còn lại của năm 2019 và đầu năm 2020, ven biển Nam Bộ sẽ xuất hiện 8 đợt triều cường.

Các đợt triều cường này sẽ xảy ra vào khoảng ngày 15-18 và 26-31/10, ngày 13-16 và 25-30/11, ngày 12-16 và 25-28/12. Ðầu năm 2020, triều cường sẽ diễn ra vào khoảng ngày 11-14/1 và ngày 10-14/2.

Cũng theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, nhiều khả năng 2 đợt triều cường xuất hiện vào khoảng từ ngày 26-31/10 và 25-30/11 sẽ xấp xỉ hoặc cao hơn đợt triều cường vào cuối tháng 9 đầu tháng 10 vừa qua, nhất là khi có gió mùa Đông Bắc cường độ mạnh lấn sâu xuống vùng biển phía Nam.

Nguy cơ xảy ra ngập lụt ở các vùng trũng thấp, vùng ven sông, vùng ngoài đê bao và sạt lở bờ sông tại các tỉnh An Giang, Ðồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ.

Hiện tượng sạt lở bờ biển tiếp tục diễn biến phức tạp nhất là trong các đợt triều cường kết hợp với gió mùa mạnh.

Trong khi đó, ven biển Trung Bộ sẽ xuất hiện các đợt triều cường cao vào các ngày 11-14/10, 9-13/11 và 13-16/12; ngày 10-13/1/2020.

Còn 3-5 cơn bão xuất hiện trên Biển Đông

Từ nay đến cuối năm mật độ bão hoạt động trên khu vực Biển Đông ở mức ít hơn trung bình nhiều năm (TBNN), khoảng 3-5 cơn, trong đó có khoảng 1-3 cơn ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền nước ta, trọng điểm là khu vực Trung Bộ và Nam Bộ. Cần đề phòng khả năng xuất hiện của những cơn bão mạnh và có quỹ đạo phức tạp.

Thời tiết chuyển mùa, tiếp tục đề phòng nguy cơ xuất hiện các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như dông, sét, lốc, mưa đá trên phạm vi toàn quốc.

Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia cho biết, từ tháng 10-12, nhiệt độ trung bình ở Bắc Bộ và khu vực từ Thanh Hóa-Thừa Thiên Huế cao hơn TBNN từ 1-1,5 độ C, các nơi khác cao hơn TBNN từ 0,5-1 độ C.

Trong khi nhiệt độ từ nay đến cuối năm trên toàn quốc đều cao hơn TBNN, thì lượng mưa lại biến động cao thấp tùy từng tháng và khu vực.

Cụ thể, tại Bắc Bộ, tổng lượng mưa tháng 10 thấp hơn TBNN từ 20-40%, tháng 11 ở mức xấp xỉ với TBNN, còn tháng 12 cao hơn TBNN từ 20-40%.

Khu vực Trung Bộ: Tổng lượng mưa tháng 10 thấp hơn TBNN cùng thời kỳ từ 20-40%; tháng 11 khu vực từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên-Huế ở mức xấp xỉ TBNN, khu vực từ Đà Nẵng đến Bình Thuận thấp hơn TBNN từ 10-30%; tháng 12 phổ biến ở mức cao hơn TBNN từ 20-40%.

Tây Nguyên và Nam Bộ, tổng lượng mưa tháng 12 phổ biến ở mức cao hơn TBNN cùng thời kỳ từ 10-30%, tháng 11 ở mức thấp hơn TBNN từ 10-20% và tháng 10 thấp hơn từ 15-30%. Khả năng mùa mưa ở khu vực kết thúc tương đương với TBNN, tuy nhiên trong các tháng cuối năm 2019 có khả năng vẫn xuất hiện các đợt mưa diện rộng.

Lũ quét, sạt lở tiếp tục có nguy cơ xảy ra tại vùng núi

Trong tháng 10, trên các sông suối khu vực Bắc Bộ sẽ xuất hiện lũ nhỏ với đỉnh lũ các sông phổ biến ở mức BĐ1 và dưới BĐ1, các sông suối nhỏ từ BĐ1- BĐ2. Lũ quét, sạt lở đất có nguy cơ tiếp tục xảy ra tại khu vực vùng núi, đặc biệt khu vực Việt Bắc và Tây Bắc.

Từ tháng 11/2019-3/2020, nguồn nước trên các sông suối khu vực Tây Bắc, Việt Bắc và Đông Bắc thiếu hụt so với TBNN từ 20-50%; khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, hạ lưu sông Hồng thiếu hụt từ30-60%.

Từ nay đến tháng 12 là thời kỳ lũ chính vụ trên các sông ở khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên, nên dòng chảy trên các sông có xu thế tăng dần. Lượng dòng chảy trên các sông ở Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên phổ biến thấp hơn TBNN cùng kỳ từ 10-35%, một số sông thấp hơn 50%.

Đỉnh lũ năm 2019 trên các sông có khả năng như sau: Các sông ở Thanh Hóa, Nghệ An ở mức báo động BĐ1-BĐ2, xấp xỉ đỉnh lũ TBNN; các sông từ Hà Tĩnh đến Bình Thuận và khu vực Tây Nguyên ở mức BĐ2-BĐ3, tương đương TBNN; trên một số sông suối nhỏ và thượng lưu các sông vẫn có khả năng xuất hiện lũ lớn.

Ở Nam Bộ, đỉnh lũ năm ở đầu nguồn sông Cửu Long khả năng đạt trên mức BĐ1. Thời gian xuất hiện mực nước đỉnh lũ năm có khả năng xảy ra vào cuối tháng 9 và nửa đầu tháng 10.

Tình hình khí tượng thủy văn trên lưu vực sông Mekong, vùng ĐBSCL còn diễn biến phức tạp, các địa phương ở Nam Bộ cần theo dõi chặt chẽ diễn biến và sớm có các biện pháp chủ động phòng chống ngập lụt, sạt lở ven sông vùng ngoài đê bao (tỉnh An Giang, Đồng Tháp) trong mùa lũ.

Nhận định đỉnh lũ năm ở đầu nguồn sông Cửu Long thấp hơn TBNN, nguy cơ về xâm nhập mặn trong mùa khô năm 2019-2020 vẫn ở mức cao. Các tỉnh ở đồng bằng Nam Bộ cần sớm có xây dựng các kế hoạch, kịch bản phòng chống hạn hán và xâm nhập mặn để chủ động ứng phó với tình hình thực tế trong thời gian tới.

Chi Mai

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop