Tin nông nghiệp ngày 13 tháng 10 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 13 tháng 10 năm 2019

Phát triển kinh tế từ vườn đa cây

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Những năm gần đây, nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã mạnh dạn chuyển xen canh thêm các loại cây trong vườn cà phê để phát triển sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, hạn chế được những rủi ro về giá cả, thời tiết và biến động của thị trường…

Thực tế cho thấy, hiện nay hầu hết các hộ dân trồng cà phê ở các địa phương trên địa bàn tỉnh đã và đang thực hiện trồng xen cây công nghiệp và cây ăn quả. Đơn cử như hộ gia đình anh Lương Xuân Hưng (xã Ea Tân, huyện Krông Năng) với 7 ha đất trước đây chỉ trồng cà phê, không có cây che bóng, đai rừng chắn gió, gây nên nhiều bất lợi cho cây cà phê, nhất là trong mùa khô. Đó là chưa kể đến những rủi ro tiềm ẩn khi giá cả lên xuống thất thường, thời tiết ngày càng có nhiều biến động... ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của gia đình. Do đó, khoảng 5 năm trở lại đây, anh bắt đầu trồng xen các loại cây khác như hồ tiêu, chanh dây, cây ăn quả.

Anh đã đầu tư hệ thống tưới béc trên cả 7 ha cây trồng; hạn chế tối đa việc sử dụng phân bón hóa học mà chủ yếu là dùng các loại phân hữu cơ nên vườn cây phát triển xanh tốt. Hiện nay, trong vườn cà phê của gia đình anh có thêm trên 6.000 trụ tiêu, 800 cây sầu riêng, 200 cây bưởi, 150 cây bơ và nhiều loại cây trồng khác như na, mít, chanh dây. Các loại cây ăn quả đã bắt đầu cho thu bói, hứa hẹn mang lại nguồn thu nhập ổn định trong những năm tới.

Theo anh Hưng, việc trồng đa cây trong vườn cà phê không chỉ đem lại nguồn lợi lớn về kinh tế, hạn chế được rủi ro mà còn có tác dụng tạo cây che bóng, chắn gió cho cà phê; đặc biệt, giúp điều hòa khí hậu, hạn chế tình trạng bốc hơi nước vào mùa khô, tiết kiệm nước tưới khoảng 20% so với trồng thuần cà phê. Mặt khác, do thời vụ thu hoạch của các cây khác nhau nên còn tạo việc làm cho lao động nông thôn trong cả năm; trung bình gia đình anh tạo việc làm thường xuyên cho khoảng 5 lao động.

Vườn bưởi bắt đầu cho thu bói của gia đình anh Lương Xuân Hưng (xã Ea Tân, huyện Krông Năng).

Tương tự, hộ ông Nguyễn Cúc (phường An Bình, thị xã Buôn Hồ) cũng có 3 ha đất trồng cà phê và các loại cây gồm: 1.500 cây tiêu, 300 cây sầu riêng, 150 cây bơ, trên 100 cây mít và 100 cây chuối. Trong đó, năm nay cây sầu riêng cho thu hoạch trên 11 tấn với giá bán từ 37.000 - 58.000 đồng/kg mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình.

Được biết, cách đây khoảng 7 năm, khi nhiều hộ dân trong vùng đổ xô chặt cà phê để trồng tiêu và các loại cây ăn quả thì gia đình ông vẫn kiên trì không chặt phá cà phê mà tiến hành trồng xen canh cây ăn quả. Nhờ vậy, mỗi năm trên cùng diện tích gia đình có nhiều đợt thu hoạch sản phẩm từ bơ đến sầu riêng, cà phê rồi hồ tiêu với nguồn thu không nhỏ. Theo kinh nghiệm của ông Cúc, phần lớn các loại cây ăn quả trồng trong vườn cà phê tuy ít được đầu tư chăm sóc nhưng vẫn mang lại hiệu quả kinh tế cao. So với độc canh cây cà phê thì khi trồng xen việc canh tác khó hơn, nhưng thu nhập ổn định và cao hơn khoảng 2-3 lần.

Ông Nguyễn Cúc, phường An Bình, thị xã Buôn Hồ (bìa trái) chia sẻ kinh nghiệm sản xuất với các hộ dân trong phường.

Có thể nói, đa dạng hóa cây trồng, nhất là các loại cây ăn quả trên cùng một diện tích đất là một trong những giải pháp tốn ít chi phí, đem lại lợi nhuận cao và thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Không những thế, hiện nay phần lớn nông dân trồng xen canh cũng đã hướng đến sản xuất bền vững, sử dụng các loại giống cây trồng có nguồn gốc xuất xứ, áp dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm, hạn chế tối đa việc sử dụng phân bón hóa học, tăng cường sử dụng các loại phân vi sinh, phân hữu cơ… để cải tạo đất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng.

Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, toàn tỉnh hiện có trên 39.000 ha cà phê được người dân trồng xen các loại cây công nghiệp và cây ăn trái; gồm: trồng xen hồ tiêu gần 20.000 ha, sầu riêng trên 3.270 ha, bơ trên 8.370 ha, điều 469 ha và cây trồng khác trên 7.000 ha.

Thúy Hồng

Mô hình tưới béc phun cho sắn: Tăng năng suất, chất lượng và nâng thu nhập cho người trồng sắn

Nguồn tin: Báo Phú Yên

Mô hình tưới phun mưa cho sắn tại xã Ea Trol (huyện Sông Hinh). Ảnh: LÊ TRÂM

Trung tâm Khuyến nông Phú Yên triển khai mô hình tưới cho cây sắn bằng biện pháp phun mưa tại xã Ea Trol (huyện Sông Hinh) trên diện tích 2ha trồng đất gò đồi. Trong đợt nắng hạn kéo dài vừa qua, hàng ngàn héc ta sắn quanh vùng thiếu nước bị còi cọc, thế nhưng sắn tưới bằng béc phun vẫn xanh tươi.

Mô hình triển khai gắn với 23 béc phun/ha, mỗi béc phun bán kính 15m, áp dụng tưới luân chuyển, mỗi lần tưới 5 béc bao phủ 150m2 đất. Thời gian hoạt động 5 giờ, mức tiêu hao nhiên liệu trung bình 5 lít dầu diesel. Với mức tưới 400-500m3/ha, đảm bảo cung cấp đầy đủ nước duy trì độ ẩm đất cho ruộng sắn khoảng 70-80%.

Nắng hạn gay gắt, sắn vẫn phát triển tốt

Ông Nay Y Bình, nông dân tham gia mô hình cho hay: Vùng này đợt nắng hạn kéo dài vừa qua, hàng trăm héc ta sắn lớn không nổi, thân cây còi cọc; riêng sắn nhà tôi tưới béc phun, lá sắn đơm lên màu xanh ra đọt non, thân cây cao gấp 2 lần sắn không tưới nước. Hiện sắn ra củ to bằng cổ tay. Ước tính năng suất sắn của mô hình đạt 30 tấn/ha, lợi nhuận 12 triệu đồng/ha, trong khi sắn trồng đại trà thì gần như mất trắng vì nắng hạn không cho củ.

Cũng theo ông Bình, hai đám sắn kề nhau, đám trồng có tưới nước nhìn khác đám trồng không tưới. Sắn trồng tưới nước xanh đều, phát triển tốt; còn trồng không tưới nước, trông chờ nước trời, gặp nắng hạn cây sắn không phát triển được.

Theo ông Ngô Xuân Nguyên, Trưởng Trạm Khuyến nông huyện Sông Hinh, hệ thống tưới nước bằng béc phun tạo được độ ẩm cần thiết cho đất, giúp cây sắn phát triển tốt, năng suất cao. Trung bình vụ tưới trồng sắn chi phí dầu, công lao động khoảng 1,5 triệu đồng/ha. Mô hình này cần được nhân rộng ra các địa phương để nâng cao giá trị sản phẩm trên diện tích canh tác.

Còn ông Nguyễn Văn Tới cũng ở xã Ea Trol trồng 1ha sắn, 3 tháng đầu do nắng hạn sắn chậm phát triển; khi ông tiếp nhận mô hình dùng béc phun mưa, cây sắn được tiếp nước ra rễ non xanh tốt. “Đợt nắng hạn vừa qua ở vùng này 7 tháng không mưa, không bón phân cho sắn được, nên đến nay trồng 8 tháng rồi sắn chỉ mới ra rễ cái và hình thành củ non. Còn sắn nhà tôi củ to bằng cổ tay. Tôi tham gia mô hình được hỗ trợ béc phun, đường ống, còn gia đình đối ứng máy bơm”, ông Tới chia sẻ.

Thống kê của UBND xã Ea Trol, niên vụ sắn 2019-2020, toàn xã trồng 320ha, chủ yếu trên vùng gò đồi. Đợt nắng hạn vừa qua làm nhiều diện tích sắn không phát triển, nông dân mất mùa. Ông Lê Văn Tấn, Chủ tịch UBND xã Ea Trol cho biết: Nắng hạn nên diện tích sắn trên địa bàn xã không phát triển được, chỉ có sắn mô hình tưới béc phun xanh tốt. Để triển khai mô hình, hộ Nay Y Bình thì đào ao, còn hộ Nguyễn Văn Tới bơm nước từ lòng hồ thủy điện Sông Hinh tưới.

Trong thời gian sinh trưởng gặp nắng hạn, sắn vẫn phát triển bình thường. Đến cuối vụ, nông dân thu hoạch nhanh vì đất ướt mềm, sắn dễ nhổ; còn trồng sắn theo cách truyền thống khi thu hoạch gặp trời nắng đất cứng thì phải dùng cuốc đào, không chỉ nhọc công mà củ sắn bị gãy, thất thoát sau thu hoạch rất lớn.

Phù hợp tưới vùng gò đồi

Năm qua, Trung tâm Khuyến nông Phú Yên cũng triển khai mô hình tưới cho cây sắn bằng biện pháp phun mưa tại xã Đức Bình Đông (huyện Sông Hinh) trên diện tích 4ha. Diện tích này nằm ở vùng gò đồi, đất có độ dốc. Cuối vụ, năng suất sắn của mô hình đạt 35 tấn/ha, lợi nhuận 15 triệu đồng/ha, cao hơn sắn trồng đại trà 8,5 triệu đồng/ha.

Ông Bùi Văn Dũng ở thị trấn Hai Riêng (huyện Sông Hinh) tham quan mô hình cho biết: Cái hay của béc phun quay tự động là lắp đặt di động nên tưới được khu vực gò đồi, chỗ đất cao béc phun tưới ướt, cây sắn xanh tươi. Còn tưới bằng máy hút nước xả ra ống tràn từ đám này qua đám khác, gặp chỗ gò cao nước không tràn qua được, sắn sẽ khô héo.

Còn theo bà Lê Thị Ánh Thi ở thôn Tân Lập (xã Đức Bình Đông), người tham gia mô hình, diện tích tưới tùy thuộc vào công suất máy bơm và số lượng béc. Năm ngoái mưa nắng đan xen, mỗi tháng tưới từ 1-2 lần tùy theo thời tiết. Mô hình này tưới di động nên 2-3 người góp lại mua đường ống, thiết bị tưới.

Ông Lê Văn Sang, Phó Chủ tịch UBND xã Đức Bình Đông cho biết: Mô hình trồng sắn áp dụng tưới nước tiết kiệm chi phí lao động; năng suất, chất lượng lại cao hơn trồng thủ công. Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi phải có nguồn nước tưới, vì vậy ngành Nông nghiệp cần hỗ trợ cho nông dân kinh phí đào ao, khoan giếng.

Nông dân được hỗ trợ kinh phí đào ao, khoan giếng, đầu tư một lần sẽ tưới cho cả sắn lẫn mía trồng luân canh được nhiều năm. Đối với vùng trồng sắn của xã trồng trên vùng gò đồi nắng hạn vừa qua không có nước tưới nên nông dân trồng 2-3 lần giống đều bị chết. Hiện nay, diện tích sắn của xã là 850ha sắp đến thời kỳ thu hoạch nhưng chưa ra củ do nắng hạn, sắn khô nước mất sức.

Theo ông Đào Lý Nhĩ, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT, sắn là một trong ba cây trồng chủ lực của Phú Yên, với diện tích trồng lên đến 23.890ha, năng suất bình quân khoảng 22,7 tấn/ha. Tuy nhiên, việc thâm canh tăng năng suất cây sắn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Bởi diện tích trồng sắn phần lớn phụ thuộc vào nước trời; năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế bị ảnh hưởng. Do đó, mô hình tưới béc phun được nhân rộng sẽ phát triển vùng nguyên liệu sắn ổn định, tăng năng suất, chất lượng và nâng thu nhập cho người trồng sắn.

MẠNH LÊ TRÂM

Hậu Giang: Cau tươi rớt giá

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Nếu như thời gian qua, có lúc thương lái vào tận vườn mua cau trái của bà con, không phân biệt già, non đều ở mức giá cao nên nhiều nông dân trồng cau ở xã như Thạnh Xuân, thị trấn Rạch Gòi, Tân Phú Thạnh, thuộc huyện Châu Thành A và một số nhà vườn ở huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) phấn khởi vì có lời. Nhưng gần đây, thương lái vào tận vườn mua cau tươi, cau già của bà con với giá chỉ còn 500 đồng/kg, còn mua tại vựa là 1.500 đồng/kg.

Anh Nguyễn Văn Y, chủ cơ sở thu mua cau ở xã Thạnh Hòa, huyện Phụng Hiệp, cho biết nguyên nhân giá cau trái giảm là do thị trường tiêu thụ đang gặp khó, trong khi cau trái đang vào mùa thu hoạch rộ.

Tin, ảnh: QUANG HẢI

Làm giàu từ mô hình cây ăn trái

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Dù đã ở tuổi 70, ông Nguyễn Quang Thanh, tổ dân phố 6, phường Ea Tam (TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) vẫn cần cù lao động, không ngừng học hỏi để phát triển mô hình cây ăn trái, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Trước đây, 6 sào đất vườn của gia đình ông Thanh chủ yếu trồng hoa hồng và hoa cúc, nhưng mang lại hiệu quả không cao và phải thường xuyên sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình chăm sóc hoa nên ông Thanh lo lắng về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe người thân trong gia đình và những người xung quanh. Năm 2015, ông quyết định chuyển đổi diện tích trồng hoa sang trồng 300 cây bưởi da xanh xen 300 cây ổi Đài Loan.

Sau thời gian chăm sóc, nhận thấy đất đai, khí hậu ở địa phương rất phù hợp để phát triển cây ăn trái, năm 2016 gia đình ông tiếp tục trồng thêm 300 cây bưởi da xanh, 300 cây cam sành và 300 cây quýt đường trên diện tích 4,4 ha, các cây trồng đều được ông tự tay chăm sóc kỹ lưỡng nên phát triển xanh tốt. Đối với cây ổi, chỉ trồng 7 tháng đã cho thu hoạch và bán được giá. Tuy nhiên, do vườn ổi dẫn dụ nhiều ruồi vàng, làm hư hại quả và ảnh hưởng đến cây bưởi đang phát triển nên năm 2017, sau khi thu hồi được vốn, ông Thanh đã quyết định phá 300 cây ổi, tập trung phát triển các cây có múi.

Vườn cây bưởi da xanh của gia đình ông Nguyễn Quang Thanh.

Đến nay, gia đình ông Thanh đã có 600 cây bưởi, mỗi năm thu được 9-12 tấn quả, với giá bán 40.000 đồng/kg (dịp Tết lên đến 55.000 đồng/kg) và 300 cây cam, 300 cây quýt thu được hơn 30 tấn quả, với giá bán 16.000 -18.000 đồng/kg, ông thu lãi 800 triệu đồng. Bên cạnh đó, mỗi dịp Tết ông còn trồng và bán thêm 2.000 chậu hoa cúc và nuôi 500 con gà siêu trứng. Sau khi trừ hết chi phí, gia đình ông thu khoảng 1 tỷ đồng/năm.

Ông Thanh cho biết, nhờ có kinh nghiệm trồng hoa nhiều năm, ông nhận biết được các loại sâu bệnh cũng như cách xử lý chúng, từ đó áp dụng vào việc phòng trừ sâu bệnh trên cây ăn trái. Bên cạnh đó, để thu được sản phẩm sạch và chất lượng, gia đình ông chủ yếu dùng phân chuồng ủ hoai bón cho cây; sử dụng chai, lọ để bẫy ruồi vàng và không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật... Đến nay, sản phẩm bưởi da xanh của gia đình ông đã đạt tiêu chuẩn VietGAP và dán tem truy xuất nguồn gốc, được các siêu thị tại Lâm Đồng và chợ đầu mối tại Buôn Ma Thuột thu mua.

Dù tuổi đã cao nhưng ông Thanh vẫn say mê làm giàu, luôn đổi mới và sáng tạo, phát triển mô hình kinh tế. Ông ấp ủ dự định trong thời gian tới sẽ phát triển thêm mô hình du lịch sinh thái trên diện tích cây ăn trái của gia đình, giúp du khách có thể tham quan, học hỏi kỹ thuật chăm sóc và thưởng thức trái cây sạch tại vườn.

Phương Thảo

Phát triển nhãn hiệu tập thể ‘Ổi Linh Nham’

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

Chị Nguyễn Thị Huệ, ở xóm Thanh Chử, xã Linh Sơn có 5.500m2 đất trồng ổi, cho thu hoạch gần 20 tấn quả/năm, trừ chi phí thu lãi từ 300-400 triệu đồng.

Với chất đất đồi đặc trưng, cây ổi được trồng tại xã Linh Sơn (T.P Thái Nguyên) cho quả giòn, cùi dày, vị ngọt đậm, được người tiêu dùng ưa chuộng. Mới đây, người dân xã Linh Sơn rất vui mừng khi sản phẩm ổi đã được công nhận nhãn hiệu tập thể “Ổi Linh Nham”. Đây là tiền đề khẳng định chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường và giúp người tiêu dùng phân biệt với các sản phẩm ổi ở những địa phương khác.

Năm 2001, cây ổi được đưa vào trồng tại xã Linh Sơn với diện tích rất khiêm tốn, chỉ 0,2ha và vài hộ trồng thử. Sau khi có sản phẩm đưa ra thị trường, quả ổi nơi đây được người tiêu dùng đón nhận một cách tích cực nên đến năm 2008, diện tích trồng ổi toàn xã đã tăng lên 30ha. Là một trong những hộ tiên phong đưa cây ổi đường giống Đài Loan về trồng trên đất Linh Sơn, sau hơn 10 năm gắn bó với cây trồng này, đến nay gia đình chị Nguyễn Thị Huệ, ở xóm Thanh Chử đã dành toàn bộ 5.500m2 đất vườn để trồng ổi. Mỗi năm, vườn ổi cho thu hoạch gần 20 tấn quả, trừ chi phí chị Huệ thu lãi từ 300-400 triệu đồng. Chị Huệ cho biết: Sau một quá trình xây dựng, hiện nay, sản phẩm của địa phương đã được cấp Giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Ổi Linh Nham”, chúng tôi rất phấn khởi. Tuy nhiên, để phát triển thương hiệu bền vững, tôi cùng các hộ trồng ổi trong xã mong muốn thành lập thêm các tổ hợp tác, sản xuất theo quy trình an toàn VietGAP để sản phẩm đồng đều về chất lượng và ổn định về giá cả.

Tìm hiểu chúng tôi được biết, hiện nay, diện tích trồng ổi toàn xã Linh Sơn đạt gần 70ha, cho giá trị kinh tế ước đạt 50 tỷ đồng mỗi năm. Đặc biệt, những năm gần đây, nhờ biết cách chăm sóc và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên thay vì chỉ được thu hoạch 2 vụ quả/năm như trước thì nay cây ổi Linh Sơn cho ra quả quanh năm. Ngoài ra, bà con còn sử dụng các biện pháp như bọc quả ổi bằng vỏ bao xi măng hay túi nilon để hạn chế sâu ăn quả, tránh quả bị rám nắng, ảnh hưởng đến chất lượng. Với giá bán trung bình từ 15-30 nghìn đồng/kg (tùy từng thời điểm), hiện nay, cây ổi đã trở thành cây trồng chủ lực, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho người dân. Chị Trần Thị Thiệp, ở xóm Tân Lập chia sẻ: Nhận thấy cây ổi không chỉ dễ trồng, ít sâu bệnh mà còn đem lại giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với trồng lúa hay những loại cây ăn quả khác nên từ năm 2011, gia đình đã chuyển đổi và phát triển hơn 7.000m2 diện tích vườn, đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ổi, thu về gần nửa tỷ đồng mỗi năm.

Để lưu lại tên gọi Linh Nham của xã Linh Sơn trước năm 1954, nhân dân trồng ổi trong xã đã thống nhất lấy tên gọi Linh Nham để xây dựng thương hiệu cho quả ổi của địa phương. Các giống ổi được bà con trồng chủ yếu là ổi ngọt Đài Loan, ổi lê... Sau quá trình thẩm định hồ sơ, ngày 1/8/2019, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã có quyết định cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể ổi Linh Nham. Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội Nông dân xã Linh Sơn nhấn mạnh: Có được kết quả trên là cả một quá trình nỗ lực, cố gắng của bà con nhân dân cùng chính quyền địa phương. Để phát huy nhãn hiệu ngày một tốt hơn, không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc sở hữu, thời gian tới, Hội sẽ tăng cường phối hợp tổ chức các chương trình tập huấn về kỹ thuật trồng, chăm sóc cây ổi theo hướng an toàn VietGAP. Còn ông Vũ Xuân Hùng, Phó Chủ tịch UBND xã Linh Sơn thì cho biết: Trong thời gian tới, địa phương sẽ quy hoạch các vùng sản xuất an toàn đối với cây ổi cũng như có phương án để bảo vệ thương hiệu cũng như tăng cường công tác quảng bá sản phẩm để tìm kiếm đầu ra ổn định cho bà con.

Với giá trị kinh tế thu được từ cây ổi và việc được công nhận nhãn hiệu tập thể “Ổi Linh Nham” không chỉ giúp người dân xã Linh Sơn phát huy thế mạnh, nâng cao chất lượng quả ổi trên địa bàn mà còn mở ra một hướng đi mới. Qua đó, góp phần tạo cơ hội đưa sản phẩm chủ lực của xã ra thị trường trong và ngoài tỉnh, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người tiêu dùng.

Lương Hạnh

Cần tìm hướng mở bên cây cam sành!

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Cây cam sành ở xã Tân Mỹ.

Diện tích trồng cam sành tăng mạnh thời gian qua ở huyện Trà Ôn (tỉnh Vĩnh Long), cộng với giá bán trái cây này xuống thấp có thể đặt ra vấn đề về phát triển bền vững vùng trồng cam sành, nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cây trồng và cơ cấu lại nông nghiệp.

Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội 9 tháng qua của UBND huyện Trà Ôn cho thấy, trên lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp đúng định hướng với lĩnh vực trồng trọt chiếm 57,35%, chăn nuôi chiếm 34,41% và dịch vụ nông nghiệp chiếm 8,24%.

Cơ cấu ngành nông nghiệp với lĩnh vực trồng trọt và dịch vụ nông nghiệp tăng, trong khi đó lĩnh vực chăn nuôi có xu hướng giảm trong 9 tháng đầu năm. Theo Phòng Nông nghiệp- PTNT huyện Trà Ôn, nguyên nhân là do tác động của bệnh dịch tả heo Châu Phi và hiệu quả từ chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa.

Theo thống kê, diện tích vườn cây lâu năm ở Trà Ôn hiện có 12.223ha, tăng 516,8ha so cùng kỳ; trong đó cây ăn quả 10.257ha, còn lại là cây công nghiệp. Trong tổng số diện tích cây ăn quả, cam sành hiện có 4.356,6ha.

Với 3.142ha, diện tích cam sành trên đất lúa đã chiếm tới 72,12% tổng diện tích cam sành. Diện tích trồng cam sành và nhất là các vườn cam sành trên đất ruộng nở rộ thời gian qua đã áp đảo về diện tích trồng cây có múi, cây đặc sản, như bưởi có hơn 933ha, chôm chôm: hơn 653ha, nhãn: hơn 644ha, măng cụt: hơn 438ha và cuối cùng là xoài, sầu riêng.

Giá trị kinh tế mang lại của cây có múi là rất lớn, nhưng có được tùy từng thời điểm và còn phụ thuộc cung cầu.

Theo dõi từng giai đoạn, có thể thấy diện tích cây cam sành- nhất là cam trên đất lúa- đã tăng cả ngàn hecta trong các năm qua. Theo Phòng Nông nghiệp- PTNT Trà Ôn, diện tích cam sành đang cho hiệu quả kinh tế hơn 2.600ha, chiếm trên 60% vườn cây có múi này. Và bức tranh chung là lợi nhuận từ vườn cây ăn trái đem lại cho nông dân là rất khá so với trồng lúa, như: cam sành: 150-190 triệu đồng/ha; bưởi Năm Roi: 200-300 triệu đồng/ha; nhãn: 50-60 triệu đồng/ha.

Tuy nhiên, rào cản hiện nay là giá cả thị trường trái cam sành xuống thấp, khiến nông dân hoặc huề vốn hoặc có lời nhưng không cao. Điều này khác với thời 5-7 năm trước, khi đi ngang vùng Hựu Thành, Thới Hòa, Thuận Thới... bạt ngàn cam sành và nghe người dân nói với nhau về các vườn cam, ruộng cam thu tiền tỷ.

Theo nông dân, giá bán cam sành tại vườn cho thương lái hiện khoảng 7.000-8.000 đ/kg. Với giá này, người trồng cam sành không lời. Anh Tấn (ấp Mỹ Phú, xã Tân Mỹ) có vườn cam sành trên đất lúa năm nay sắp thu hoạch năm thứ 2 (thu hoạch năm nhất và năm thứ 2 là thời điểm chính để quyết định thu hồi vốn và có lời trong vòng đời canh tác cây cam sành khoảng 5 năm). Theo anh Tấn, nếu làm đạt 10-12 tấn/công và với giá bán tầm 10.000-12.000 đ/kg thì mới có lời.

Vùng cam sành thuộc ấp Mỹ Phú có hàng chục hecta cam các lứa tuổi. “Làm ruộng giờ lúa giá cũng nhiêu ấy, nên bà con nhiều nơi (có điều kiện đất đai, kinh tế) đã chuyển sang trồng cây khác”- chú Tư Luân ngồi cùng góp chuyện. Chú kể vừa mới xuống giống 2 công cam và cây đã lên cơi 1-2. Đây cũng là minh chứng nhỏ cho diện tích cây có múi này tăng mạnh thời gian qua.

Thực tế, nông dân nắm rất rõ luật thời vụ để lấy lại vốn và lợi nhuận. Kinh nghiệm của họ là trong 6 tháng từ cuối năm này đến tầm giữa năm sau thì thị trường “ăn” trái cam nhiều. Tức khi cầu nhiều thì trái cam sành lên giá, khi “đụng hàng” thì rớt giá ngay. Như có hộ trồng cam ở đây hồi tháng 5-6 âl rồi đã cho cam ra thị trường và giá tới 14.000-15.000 đ/kg cam sành, thu vốn nhanh và có lời khá.

Anh Tấn nhìn nhận một điều dễ thấy: diện tích cam sành tăng cao dẫn đến cung vượt cầu và giá bán rẻ lại. Và thị trường tiêu thụ cam sành chủ yếu nội địa: TP Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Tây nên chưa đa dạng đầu ra. Vì thế ở góc độ nông dân, ngoài ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất, có người còn học hỏi thêm để có nhiều sản phẩm cây trái khác như quýt, chanh,...

Như anh Tấn, ngoài hơn 1ha cam sành, anh học hỏi bà con vùng Thuận Thới để trồng thêm 1ha quýt đường. Mà Thuận Thới trước giờ vẫn bạt ngàn cam sành. “Xuống giống hơn 2 tháng nay, mình coi chuyển hướng từ từ xem sao”- anh Tấn nói nếu không có gì thay đổi đến Tết 2022 là có quýt ra thị trường. Mà theo anh biết, giá quýt giờ vùng Tiền Giang, Đồng Tháp thu mua 20.000-24.000 đ/kg, người trồng thu nhập khá!

Có thể tìm hướng mở trong nội tại phát triển cây cam sành là một chuyện. Và hướng mở với các loại cây trồng khác ở những vùng trồng cam sành là chuyện tiếp theo…

Bài, ảnh: TƯỜNG VÂN

Làm giàu trên đất cát

Nguồn tin:  Báo Quảng Bình

Tận dụng vùng đất cát gần nhà, anh Nguyễn Hữu Hà, thôn An Định, xã Hồng Thủy, huyện Lệ Thủy (tỉnh Quảng Bình) đã xây dựng mô hình chăn nuôi tổng hợp cho thu nhập cao. Với diện tích trang trại 4 ha, anh đã đầu tư nuôi cá, ếch, vịt và phát triển thêm ngành dịch vụ, thu lãi mỗi năm trên 600 triệu đồng.

Năm 1976, anh Hà theo cha về dựng nhà, khai hoang vùng đất cát ở thôn An Định, xã Hồng Thủy. Cuộc sống ngày đó vô cùng khó khăn, vất vả do bão lụt, cát bay. Để vượt qua đói nghèo, năm 1990, cha con anh đã quyết định chuyển một phần đất trồng lúa, đất vườn để đào ao nuôi cá.

Khi dự định còn dở dang, anh lên đường nhập ngũ. Ba năm sau, anh về quê lập gia đình rồi tiếp tục phát triển mô hình. Với diện tích đất 4 ha, anh đầu tư đào trên 1ha ao nuôi cá. Anh Hà nhớ lại: “Ngày đó, nhờ nuôi cá mà đời sống gia đình ngày càng khấm khá lên. Tuy nhiên, có những năm mưa lũ cuốn trôi hết nên trắng tay, mấy hết cả vốn”.

Qua những lần thất bại, anh đã rút ra cho mình nhiều bài học kinh nghiệm để tránh lũ. Đó là phải chọn các loại giống vật nuôi phù hợp, thời gian nuôi trong vòng 8 tháng, (tránh nuôi từ tháng 8 đến tháng 11 dương lịch).

Mỗi năm, trang trại của anh Nguyễn Hữu Hà xuất bán 10 tấn cá lóc và cá rô đầu vuông.

Nhờ đó, anh đã có những vụ mùa bội thu. Hiện anh đang có 3 hồ nuôi các loại cá rô đầu vuông, cá lóc, cá trắm, cá chép. Tận dụng mặt nước hồ, anh nuôi thêm hàng nghìn con vịt, ếch với tổng vốn đầu tư 780 triệu đồng.

Theo anh Hà, nuôi cá lóc và cá rô đầu vuồng không khó, nhưng phải thực hiện đúng quy trình. Trước khi nuôi, ao phải được tát cạn nước, bắt hết cá tạp, vét bùn đáy ao, chừa lại lớp bùn khoảng 20cm, rửa phèn đáy ao khoảng 3-4 lần. Đáy ao được bón phân chuồng phù hợp để tạo hệ đệm nền đáy, ngăn phèn và cấp nước phù hợp.

Cá giống trước khi thả phải chọn những con khỏe mạnh, đồng đều, không xây xát, dị tật, trọng lượng từ 150-200 con/kg. Mật độ nuôi 20 con/m2. Trong quá trình nuôi, cần định kỳ bón vôi phòng bệnh cho cá và thường xuyên thay nước, theo dõi hoạt động của cá. Với cách làm này, trung bình mỗi năm, anh xuất bán 12 tấn cá các loại, trong đó, cá lóc và cá rô đầu vuông khoảng 10 tấn, cá trắm và cá chép 2 tấn.

Ngoài phát triển chăn nuôi, anh Hà còn kinh doanh thức ăn chăn nuôi với trữ lượng hàng hóa lên cả chục tấn. Làm ăn khấm khá, anh đầu tư mua được xe ô tô tải để chở thức ăn cá đi bán và mua cá biển từ thành phố Đồng Hới về nhập lại cho các thương lái trên địa bàn.

Anh Hà tâm sự: “Cứ khoảng 2 giờ sáng, tôi lái xe tải về cảng cá Nhật Lệ để nhập cá về giao cho khách. Khoảng 7 giờ sáng, công việc bán cá hoàn thành thì về chăm cá, vịt, ếch và trồng lúa. Công việc cũng khá vất vả, nhưng làm thường xuyên rồi quen. Bù lại, thu nhập mang lại khá ổn định nên tôi có động lực để làm”.

Với mô hình kinh tế tổng hợp này, mỗi năm, gia đình anh Hà thu lãi ròng trên 600 triệu đồng. Mô hình luôn duy trì ổn định từ năm 2014 đến nay, tạo việc làm thường xuyên cho 6 lao động nông thôn có mức lương 6 triệu đồng/tháng. Nhiều nông dân đến học hỏi kinh nghiệm và được anh giúp đỡ tận tình.

Ông Châu Văn Sông, Chủ tịch UBND xã Hồng Thủy cho biết: “Anh Phạm Hữu Hà là một trong những nông dân tiêu biểu trên địa bàn xã. Mô hình kinh tế tổng hợp của anh là điểm sáng để bà con trong xã, huyện học tập và làm theo. Trong quá trình sản xuất, anh cũng đã chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ nhiều hộ vươn lên thoát nghèo”.

Với những kết quả đã đạt được, anh Nguyễn Hữu Hà đã tặng bằng khen, giấy khen cấp tỉnh, huyện vì có thành tích trong phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi.

Việt Hà

Tăng thu nhập dựa vào mùa nước nổi

Nguồn tin:  Báo An Giang

Mùa nước nổi, dựa vào lợi thế thiên nhiên có sẵn, người dân ở huyện Phú Tân (tỉnh An Giang) vào cuộc mưu sinh bằng nhiều cách nhằm tăng thêm thu nhập. Đặc biệt, các hoạt động khai thác sản vật tự nhiên là công việc của đại đa số hộ nghèo, vốn không có đất sản xuất, ngày thường sống bằng nghề làm thuê. Đến hẹn lại lên, nước về đồng “chở” theo sản vật thiên nhiên ban tặng, cưu mang những phận đời lam lũ giúp họ thêm phấn khởi.

Tận dụng diện tích mặt nước, nhiều hộ dân sống ven sông, kênh đã trồng một số rau thủy sinh tăng thêm thu nhập trong mùa nước nổi như: rau muống, rau nhút, rau ngổ, cù nèo… Bà Nguyễn Thị Sương (ngụ ấp Bình Đông 1, xã Phú Bình) cho biết, đã trồng rau ngổ và rau nhút nhiều năm nay, trải dài theo bờ kênh khoảng 55m. Rau ngổ dễ thích nghi và phát triển rất tốt, hầu như không tốn công chăm sóc, sau nhiều đợt thu hoạch chỉ cần bón phân 1 lần để dưỡng. Với 2 loại rau này, mỗi ngày bà Sương thu hoạch từ 20-50kg, bán cho bạn hàng chợ địa phương, giá rau ngổ là 3.000 đồng/kg, còn rau nhút được bó lọn nhỏ bán 5.000 đồng/bó. Bằng cách chia khu vực thu hoạch nên bà có rau hái hàng ngày, mùa này dòng nước có nhiều phù sa nên ngọn rau vươn ra rất nhanh, cách 2 ngày quay lại thu hoạch điểm cũ.

Người dân thu hoạch rau ngổ, rau nhút trồng dọc theo bờ kênh

Tại xã Bình Thạnh Đông, Chủ tịch Hội Nông dân Mai Duy Linh cho biết, hàng năm Hội Nông dân xã tuyên truyền cho bà con tăng gia sản xuất trong mùa nước nổi, trồng rau thủy sinh là lựa chọn phổ biến. Có 30 hộ trồng rau ngổ, tập trung ở ấp Bình Trung 1, ấp Bình Đông 2 và ấp Bình Quới 2. Loại rau này dễ trồng và nhẹ công chăm sóc, mức thu nhập tuy không cao nhưng rất ổn định, đặc biệt là trong mùa nước nổi. Ông Lê Văn Đặng (ngụ ấp Bình Trung 1) chia sẻ: “Gia đình tôi khó khăn, không có đất sản xuất, tận dụng mặt nước 500m2 trồng rau ngổ 12 năm nay. Chỉ cần cắm cọc tre để rau bám vào và không cản trở giao thông thủy. Rau ngổ phát triển nhất vào mùa nước nổi vì lượng nước lưu thông mạnh, dồi dào phù sa, nông dân bỏ chi phí rất thấp mà “được mùa”. Mỗi ngày, tôi kiếm được 120.000-150.000 đồng nhờ bỏ rau cho các bạn hàng trong xã”.

Với những người nghèo thuộc vùng sâu, trong thời gian nước đổ về đồng, khai thác sản vật thiên nhiên cũng là cách để có tiền dễ dàng hơn. Ông Lê Văn Lời (ngụ ấp Phú Hạ, xã Phú Xuân) chỉ có việc làm thuê đủ sống qua ngày, đến mùa này, ông rủ bạn bè cùng đi chất mô bắt lươn có thu nhập cao hơn. Ông Lời cho biết: “Làm việc này đâu cần vốn liếng gì, sắm cái vợt, chất rau muống, lục bình ủ rồi bỏ mồi vô, ngày nào ra thăm cũng “có tiền”, anh em chia đều, khá thì 500.000 đồng, còn ít cũng được hơn 300.000 đồng, có đồng ra đồng vào cho con ăn học”. Trên những cánh đồng gần nhà, ông Lời chất 150 mô, nhiều gấp đôi năm ngoái, xoay vòng mỗi ngày xúc 50 mô, thu được từ 3-5kg lươn, cá các loại. Theo kinh nghiệm, xúc lươn phải đi vào sáng sớm, lúc lươn ngoi lên khỏi mặt nước ngơi nghỉ, bỏ công dỡ mô là thu được thành quả từ tự nhiên. Hiện nay có nhiều cách bắt lươn đồng, nhưng chất mô là cách hiệu quả được nhiều người áp dụng. Trong nguồn nước lũ còn có một sản vật đem lại thu nhập rất khá là trứng nước, được dân rủ nhau khai thác bán cho thương lái.

Thu mua trứng nước khai thác trên đồng ngập lũ

Anh Nguyễn Văn Phú là người chuyên thu mua trứng nước tại các đồng nước thuộc xã Hòa Lạc và Phú Thành để phân phối cho các hộ nuôi cá trong và ngoài huyện. Anh Phú cho hay, mùa lũ trứng nước rất nhiều nên giá thấp hơn, bù lại nhờ khai thác được số lượng lớn, dân đi kéo trứng nước kiếm được bộn tiền mà người bán cũng khá theo. Luân phiên qua các địa bàn thu mua, anh gom mua trứng nước khoảng vài trăm kg đến gần 1 tấn/ngày vận chuyển đi TX. Tân Châu, TP. Châu Đốc, TP. Long Xuyên… Với những chuyến đi xa, muốn bảo quản trứng nước phải trữ lạnh. Trứng nước giàu dinh dưỡng là thức ăn cho cá bột hoặc cá cảnh, sinh trưởng rất nhiều trên đồng ruộng, vốn có nhiều chất hữu cơ. Không tính ngày tháng, mà quan sát nước ngoài đồng ngập đến ngang người là biết vào mùa chính khai thác trứng nước, tuy công việc này có phần vất vả nhưng đồng ra đồng vào khá hơn các mùa khác trong năm. Đó là cách người dân tranh thủ trong những ngày nông nhàn kiếm thêm tiền trang trải cho cuộc sống.

MỸ HẠNH

Đồng Tháp: Ngành chăn nuôi gặp nhiều khó khăn

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Do ảnh hưởng từ dịch bệnh nên tình hình chăn nuôi của tỉnh Đồng Tháp những tháng đầu năm 2019 gặp nhiều khó khăn so với cùng kỳ năm trước. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp, hiện tình hình dịch bệnh trên gia súc diễn biến phức tạp, nhất là bệnh dịch tả heo Châu Phi vẫn đang tiếp tục xảy ra. Tính đến ngày 31/8/2019, toàn tỉnh có 5.664 hộ chăn nuôi ở 139 xã của 12/12 huyện, thị, thành phố có heo mắc bệnh. Số heo bệnh và tiêu hủy 114.750 con (chiếm khoảng 44,15% tổng đàn), tổng khối lượng tiêu hủy hơn 7.534 tấn.

Ngành chăn nuôi đối diện với nhiều áp lực trong những tháng đầu năm

Bên cạnh những khó khăn chung trong công tác kiểm soát dịch dịch tả heo Châu Phi, tiến độ thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi cũng đối mặt với nhiều điểm nghẽn. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, một trong những nguyên nhân khiến cho việc phát triển tái cơ cấu ngành chăn nuôi còn gặp nhiều khó khăn là do: quy mô chăn nuôi của nông hộ còn nhỏ lẻ, thiếu vốn đầu tư, thiếu đất sản xuất nên khó tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ, các chính sách đòi hỏi có vốn đối ứng, con giống chưa đạt chất lượng,... Riêng đối với ngành hàng vịt, phần lớn hộ chăn nuôi vịt chạy đồng hiện không có đất để chăn nuôi, hoặc một số hộ chăn nuôi vịt thiếu vốn nên không xây dựng được chuồng trại kiên cố, không xây dựng các công trình xử lý chất thải,... vì vậy gặp khó khăn khi áp dụng các biện pháp nuôi an toàn sinh học VietGAP,... nên không thể đáp ứng được các điều kiện của mô hình sản xuất có liên kết tiêu thụ, cũng như tham gia vào các chuỗi truy xuất nguồn gốc sản phẩm chăn nuôi.

Mỹ Lý

Quảng Ngãi: Hiệu quả mô hình nuôi thâm canh bò lai chuyên thịt tại xã Phổ Vinh

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Trong phát triển kinh tế nông hộ thì nuôi bò chỉ được xem là kinh tế phụ của phần lớn các hộ gia đình ở xã Phổ Vinh, huyện Đức Phổ bởi bò là con vật nuôi ít rủi ro, dễ nuôi, dễ chăm sóc, chi phí thức ăn thấp, chủ yếu lấy công làm lãi nên được nhiều nông dân chọn nuôi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây nhu cầu bò thịt tăng cao, giá bán bò ổn định ở mức cao, nhiều nông dân ở xã Phổ Vinh đã đầu tư chăn nuôi thâm canh bò lai chuyên thịt đạt hiệu quả kinh tế cao.

Với mục tiêu chuyển giao nhanh tiến bộ kỹ thuật chăn nuôi thâm canh bò lai chuyên thịt, vận động người dân áp dụng vào thực tế chăn nuôi của gia đình, từng bước nâng tỷ trọng ngành chăn nuôi bò thịt lên thành một trong những ngành mũi nhọn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, ổn định đời sống người dân. Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Đức Phổ đã triển khai thực hiện mô hình nuôi thâm canh bò lai chuyên thịt tại xã Phổ Vinh. Tham gia mô hình có 13 hộ dân có điều kiện chăn nuôi bò phù hợp với yêu cầu của mô hình về chuồng trại, con giống, khả năng đầu tư. Quy mô 50 con bò lai thuộc các giống Charolais, BBB, Limousin, Brahman thuần. Trong thời gian triển khai mô hình, các chủ hộ được hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, hỗ trợ không hoàn lại thuốc thú y và 81 kg thức ăn/con bò. Sau 3 tháng nuôi vỗ béo, bò tăng trọng bình quân 80 kg hơi/con, sau khi trừ các khoản chi phí, mỗi con bò cho lãi gần 4 triệu đồng.

Tham quan mô hình nuôi thâm canh bò lai chuyên thịt của gia đình anh Nguyễn Ngọc Phi, thôn Đông Thuận, xã Phổ Vinh, huyện Đức Phổ

Ông Lê Đức Ân - Chủ tịch Hội Nông dân xã Phổ Vinh cho biết: Mô hình chăn nuôi thâm canh bò lai chuyên thịt cùng với các mô hình chăn nuôi bò theo chuỗi phù hợp với chủ trương đẩy mạnh công tác tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển chăn nuôi bò thành nghề mũi nhọn của xã Phổ Vinh. Đặc biệt mô hình đã góp phần đẩy mạnh công tác chuyển đổi cây trồng, con vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững tại địa phương. Tuy nhiên để người nông dân sản xuất nông nghiệp nói chung, nông dân chăn nuôi bò nói riêng không bị thương lái ép giá như hiện nay, đề nghị Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Đức Phổ và Trung tâm Khuyến nông Quảng Ngãi quan tâm hỗ trợ thành lập tổ hợp tác, hợp tác xã để giúp người dân nâng cao thu nhập, giúp công tác xây dựng nông thôn mới của Phổ Vinh đạt kết quả cao.

Ông Nguyễn Thành Lưu - Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Đức Phổ cho biết: Nuôi vỗ béo bò là dùng biện pháp sử dụng thức ăn dinh dưỡng, chăm sóc nuôi dưỡng làm cho khối lượng con vật tăng nhanh và phẩm chất thịt được nâng cao. Thời gian nuôi vỗ béo tùy thuộc vào phương thức nuôi, thức ăn, giống, tăng trọng của bò. Bò đưa vào nuôi thâm canh đạt hiệu quả cao phải chọn những con bò có độ tuổi từ 16 - 20 tháng, mình dài, khung xương lớn, vai và mông nở, bốn chân chắc khỏe, ngực sâu và rộng. Hiện nay các giống bò lai phù hợp với điều kiện nuôi thâm canh gồm Charolais, BBB, Limousin... Các giống bò có tỷ lệ máu lai càng cao thì khả năng tăng trọng và tỷ lệ thịt càng cao.

Nhằm phát huy thế mạnh phát triển kinh tế chăn nuôi, trong những năm tới, xã Phổ Vinh tích cực vận động, tuyên truyền người dân mạnh dạn nhân rộng mô hình nuôi thâm canh bò lai chuyên thịt, đồng thời tranh thủ các nguồn vốn đầu tư từ nhiều chương trình, dự án để hỗ trợ, tạo điều kiện cho người dân phát triển kinh tế, mở rộng quy mô chăn nuôi thâm canh bò lai chuyên thịt, nâng cao thu nhập, vươn lên làm giàu./.

Mạnh Hùng - Trung tâm Khuyến nông Quảng Ngãi

Chủ trang trại bất lực nhìn đàn dê chết thảm ngay giữa khu công nghiệp

Nguồn tin: VOV

Một chủ trang trại ở Lào Cai vừa đầu tư quy mô để nuôi dê nhưng đã phải gánh chịu thiệt hại. Đáng nói là trang trại này nằm ngay giữa khu công nghiệp.

Theo phản ánh của ông Nguyễn Công Hoan, chủ trang trại nuôi dê tại thôn Khe Chom, thị trấn công nghiệp Tằng Loỏng, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai, từ cuối tháng 6/2019 đến nay, vợ chồng ông phải bất lực chứng kiến hàng loạt con dê trong đàn nuôi lần lượt có biểu hiện ho, chảy nước mũi, sốt cao, bỏ ăn rồi chết.

Trong tổng đàn 104 con chủ yếu là dê cái sinh sản, đến nay đã chết gần hết chỉ còn khoảng 20 con cũng đang khật khừ. Từ khi bắt đầu có biểu hiện bất thường trên đàn dê, ông Hoan đã báo cho thú y của thị trấn, rồi của huyện để được hỗ trợ nhưng vẫn không mấy khả thi.

“Gia đình cũng chỉ làm đúng theo hướng dẫn của cán bộ thú y chứ chẳng biết làm gì khác. Từ khi bắt đầu có dê chết cho đến bây giờ vẫn đang tiếp tục điều trị mà không ăn thua”, ông Hoan nói.

Từ cuối tháng 6 đến nay có khoảng 80 con dê trong đàn đã chết.

Trang trại dê của ông Hoan nằm giữa khu rừng trồng của gia đình ở thôn Khe Chom. Xuất phát từ ý tưởng “lấy ngắn nuôi dài” bằng thứ vật nuôi “chỉ ăn cỏ và uống nước lã”, lại sinh sản nhanh, ông Hoan quyết tâm học hỏi kinh nghiệm, đầu tư mặt bằng, chuồng trại, con giống với số vốn ngót nghét 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, mới tiến hành nuôi được ít ngày thì xảy ra hiện tượng bất thường.

Ông Hoan cho biết, trang trại được đầu tư rất bài bản, nuôi nhốt dê trong chuồng có sàn nhựa cao ráo, công tác vệ sinh khử trùng tiến hành thường xuyên nhằm bảo đảm tối đa an toàn, sức khỏe cho đàn dê. Điều khiến ông băn khoăn nhất là xung quanh trang trại có tới 4 – 5 nhà máy công nghiệp hoạt động suốt ngày đêm. Bản thân Khe Chom cũng là một trong những thôn trọng điểm bậc nhất về ô nhiễm, tại đây từng có hàng chục hộ dân phải di dời đi nơi khác sinh sống.

“Nguyện vọng của gia đình là kiến nghị cơ quan chức năng giúp đánh giá xem dê chết vì đâu, đồng thời nghiên cứu xem đặt trang trại chăn nuôi tại đây có chịu tác động gì về môi trường không để còn có định hướng”, ông Hoan chia sẻ.

Ông Hoan bất lực nhìn đàn dê chết dần chết mòn.

Theo ông Nguyễn Đức Hoàn, Trưởng thôn Ke Chom, trước kia trong thôn từng có 3 hộ nuôi dê giống ông Hoan nhưng đều thất bại. Không chỉ trên đàn dê, điều bất thường còn xảy đến với cả các hộ nuôi trâu, bò, hiện tại cả thôn không còn một con trâu bò nào, vì cứ nuôi là chúng lại lần lượt ngã bệnh.

“Trước đây, tổng đàn trâu của thôn có khoảng 60 con nhưng bây giờ thì bán hết, con nào nuôi cũng bị đau sưng gối, rồi què không đi được phải bán mà chẳng rõ nguyên nhân”, ông Hoàn cho biết.

Ngay cổng trang trại là nhà máy sản xuất phốt pho của công ty Nam Tiến.

Ông Lê Chí Dũng, Phó Chủ tịch thị trấn Tằng Loỏng cho hay, trước những hiện tượng bất thường trên đàn gia súc, phía chính quyền thị trấn cũng rất lo vì vốn đầu tư của người dân chủ yếu là đi vay để phát triển kinh tế, việc sử dụng cũng đúng mục đích nhưng xảy ra việc không may như vậy sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến hộ kinh doanh, nhất là tới thời hạn phải trả ngân hàng.

“Ở góc độ chính quyền địa phương, chúng tôi đề nghị cơ quan chức năng sớm tìm ra nguyên nhân chết trên đàn dê này, nhưng phải làm rõ là do bệnh tật hay do tác động khác để gia đình có giải pháp cụ thể, một là đầu tư nuôi tiếp để khôi phục kinh tế, hai là sẽ không đầu tư nuôi nữa”, ông Dũng nhấn mạnh.

Qua tìm hiểu của phóng viên, được biết sau khi vụ việc xảy ra, một số cơ quan như Phòng Nông nghiệp huyện Bảo Thắng và Chi cục Thú y tỉnh Lào Cai đã cử cán bộ tới hiện trường làm rõ. Tuy nhiên, ngoài việc chẩn đoán lâm sàng, bước đầu nghi ngờ đàn dê mắc chứng viêm màng phổi truyền nhiễm do vi khuẩn, đến nay vẫn chưa có cơ quan nào đưa ra được kết luận về nguyên nhân xảy đến tình trạng này./.

An Kiên/VOV-Tây Bắc

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop