Tin nông nghiệp ngày 21 tháng 8 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 21 tháng 8 năm 2019

Trồng dâu tây trên sỏi

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Sau hơn 2 năm thử nghiệm trồng dâu tây ở xã Ninh Gia (huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng), bà Huỳnh Thị Lệ (65 tuổi) đã khiến nhiều người ngỡ ngàng khi cây dâu tây phát triển xanh tốt, trĩu quả ở nơi có nhiệt độ cao hơn xứ sở của loài cây này rất nhiều.

Liều lĩnh lựa chọn khác biệt giúp bà Lệ có được những thành quả xứng đáng. Ảnh: H.T

“Nói thật là tôi cũng phải lấy hết can đảm mới dám thử nghiệm bởi chi phí đầu tư để làm nhà kính cũng như mua thùng, sỏi... không phải là nhỏ. Nhưng giờ thì có thể nhẹ nhàng mỉm cười khi đi thăm vườn mỗi ngày”, bà Huỳnh Thị Lệ nhớ lại quãng thời gian đầu tiên.

Không trăn trở sao được khi để làm được 300 m2 nhà kính trồng dâu tây như hiện tại, bà Lệ phải bỏ ra chi phí đầu tư rất lớn, vào khoảng 700 triệu đồng, cộng thêm một lần thất bại khi chưa tìm được phương pháp thích hợp nhất. Lúc ấy, mọi người đến với bà đều đặt ra những câu hỏi cây trồng trên sỏi, không có đất thì làm sao sống được? Sống rồi đến lúc ra bông có đậu trái không? Ra trái thì có ăn được không?... Những câu hỏi đó đôi lúc khiến bà suy nghĩ về sự liều lĩnh của mình.

Thế nhưng sau hơn 2 năm, kết quả đã làm đẩy lùi những nỗi lo. Điều đặc biệt tạo nên công thức dâu trong vườn dâu công nghệ cao này chính là giá thể gồm sỏi perlite, hạt xốp và viên đất nung. Và người cùng hỗ trợ để làm nên sự khác biệt này là ông Nguyễn Tiến Kiên (80 tuổi). Từng có thời gian bôn ba nơi xứ người, cũng từ xuất thân là một người nông dân nên ông Kiên bảo rằng trong ông luôn đau đáu làm sao để giúp người nông dân quê mình áp dụng khoa học, kỹ thuật để đạt năng suất cây trồng cao nhưng cũng vẫn phải đảm bảo các tiêu chí xanh, sạch, bền vững.

Ông Kiên cho biết, sỏi perlite là loại nham thạch núi lửa sau khi phun trào, khô tạo thành các mảng lớn chứa nhiều khoáng chất, chủ yếu là SiO2. Sỏi perlite có trọng lượng nhẹ, nổi trên mặt nước, đồng thời được bao phủ bởi nhiều tế bào nhỏ hấp thụ độ ẩm bên ngoài của hạt, làm cho nó đặc biệt hữu ích trong việc tạo điều kiện độ ẩm cho rễ cây, tạo nhiều khoảng hở, thoáng khí giúp cho bộ rễ hô hấp tốt, phát triển mạnh. Nhờ khả năng ngậm nước tốt đã tạo nên môi trường vô cùng lý tưởng cho các rễ cây non giúp sản lượng cây trồng cao mà không cần có đất. Chất dinh dưỡng được giữ trong các lỗ xốp nhỏ trên bề mặt của các hạt sỏi perlite, sẵn sàng được sử dụng bởi rễ cây. Nhờ những tính năng ưu việt đó mà ở các nước trên thế giới, đá perlite được sử dụng nhiều trong canh tác thủy canh.

Bằng việc thử nghiệm với các mẫu dâu tây và một số loại cây trồng trên xơ dừa (xơ dừa + 30% sỏi perlite) và 100% sỏi perlite cho kết quả sinh trưởng khác nhau, ông Kiên càng khẳng định hướng đi đúng đắn của mình. “Sỏi perlite sạch, khắc phục được hạn chế có các mầm bệnh tồn tại sẵn trong đất. Với sỏi, rễ cây thoáng, quá trình hô hấp của cây ở mức cao, dẫn đến phát triển nhanh. Dẫu giá thành của sỏi đắt hơn những loại nguyên liệu giá thể khác nhưng có thể tái sử dụng bằng cách rửa sạch, tiệt trùng và dùng được mãi mãi. Đầu tư ban đầu rất cao nhưng càng về sau thì sẽ càng có lợi”, ông Kiên chia sẻ.

Cùng với đó, ông Kiên lắp đặt hệ thống điều chỉnh nhiệt độ. Nếu trời không có nắng, hay vào mùa mưa thì hệ thống tự động nhả khí CO2 để quá trình hô hấp của cây vẫn được đảm bảo. Trong trường hợp nhiệt độ cao thì hệ thống phun sương tự động, giúp điều tiết, kiểm soát nhiệt độ trong nhà kính, giữ độ ẩm ở mức cân bằng. Khu vườn có thiết kế 3 tầng linh động, tiết kiệm diện tích đồng thời có thể dễ dàng thay đổi vị trí từng chậu cũng như thay thế cây mới trong trường hợp bị nhiễm bệnh.

Với việc đầu tư bài bản, cùng với sự hỗ trợ tích cực về mặt kỹ thuật của ông Kiên, vườn dâu đã đem lại những thành quả tương xứng. Trên diện tích gần 300 m2, vườn dâu cho sản lượng xấp xỉ 1 tấn/năm. Giờ đây, khoảng không gian ấy trở thành niềm vui trong lao động của bà Lệ khi ngày ngày tự tay chăm sóc, hái những trái dâu chín, căng mọng cho khách hàng. Trong quá trình làm, bà Lệ cũng tìm tòi, học hỏi để giờ đây hoàn toàn tự tin một mình có thể chăm bẵm vườn dâu, tự biết pha các công thức để bổ sung dưỡng chất cho cây. Qua đó, dần khẳng định chỉ cần chịu đầu tư tìm tòi để áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới thì các yếu tố về nhiệt độ, môi trường cũng không hoàn toàn làm khó được người nông dân.

HỒNG THẮM

Kbang (Gia Lai): Xây dựng mô hình trồng chuối tiêu hồng cấy mô

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Trung tâm Nghiên cứu Giống cây trồng tỉnh Gia Lai vừa lập kế hoạch xây dựng 1 ha mô hình trình diễn giống chuối tiêu hồng nuôi cấy mô để hỗ trợ cho xã Kông Pla chuyển đổi cây trồng.

Mô hình trồng chuối tiêu hồng ở huyện Ia Pa. Ảnh: Ngọc Sang

Theo đó, UBND xã sẽ chọn từ 10 đến 20 hộ có đất ở vùng giao thông thuận lợi, gần nguồn nước thuận tiện cho việc áp dụng cơ giới hóa và phòng trừ sâu bệnh để thực hiện mô hình. Các hộ dân tham gia mô hình được hỗ trợ cây giống, tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc. Tổng vốn thực hiện mô hình là 49,25 triệu đồng, trong đó, người dân đóng góp 26,45 triệu đồng.

Việc xây dựng mô hình trồng chuối tiêu hồng nuôi cấy mô để làm cơ sở nhân rộng thành vùng sản xuất hàng hóa đáp ứng được vùng nguyên liệu cho Nhà máy chế biến rau quả DOVECO thuộc Công ty cổ phần Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao. Dự kiến thời gian triển khai mô hình vào tháng 9-2019.

Ngọc Sang

Đắk Lắk: Tổ hợp tác trồng vải xã Ea Na (huyện Krông Ana): ‘Cầu nối’ giúp người dân phát triển kinh tế

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Từ khi thành lập đến nay, Tổ hợp tác (THT) trồng vải xã Ea Na (huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk) đã phát huy được vai trò hỗ trợ thành viên nâng cao hiệu quả sản xuất.

Theo chị Mai Thị Hằng, Chủ tịch Hội Nông dân xã Ea Na, cây vải thiều được trồng trên địa bàn xã từ năm 1999 nhưng người dân chỉ trồng rải rác trong vườn nhà. Sau một thời gian trồng thấy cây vải phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương lại có thể ra trái mùa, bán được giá cao, người dân ở một số thôn như Thành Công, Tân Tiến, Quỳnh Ngọc và Quỳnh Ngọc 1 chọn cây vải trồng xen trong các vườn cà phê hay trồng thuần trên những diện tích mới khai hoang để phát triển kinh tế.

Tuy nhiên do người dân chưa nắm vững kỹ thuật trồng, chăm sóc cây vải mà chỉ làm theo kinh nghiệm nên hiệu quả chưa cao. Với mục đích hỗ trợ người trồng vải về kỹ thuật sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, đầu năm 2019, Hội Nông dân xã Ea Na đã quyết định thành lập THT trồng vải, với 35 thành viên, tổng diện tích trồng vải của các thành viên là 30 ha, trong đó có 7 ha vải đang trong thời kỳ kinh doanh.

Từ khi THT được thành lập, thông qua các buổi sinh hoạt định kỳ hằng tháng, các thành viên đã cùng nhau trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây vải thiều. Đặc biệt, khi có vườn cây của hộ nào xuất hiện tình trạng sâu bệnh, thì ngay lập tức các thành viên trong tổ sẽ xuống tận nơi để kiểm tra, tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh để phòng và chữa trị bệnh kịp thời.

Anh Phạm Hải Nam chiết cành vải để làm giống.

Bên cạnh việc cùng nhau trao đổi kinh nghiệm, THT còn mời một số hộ có kinh nghiệm trồng vải thiều lâu năm ở huyện Krông Pắc, Ea Kar xuống tận vườn tư vấn, “cầm tay chỉ việc” cho thành viên; đồng thời chủ động phối hợp với các đơn vị liên quan, công ty chuyên về cây ăn trái có uy tín tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng cách… giúp cho việc chăm sóc vườn cây của người dân được tốt và hiệu quả hơn so với trước.

Gia đình bà Phạm Thị Năm (thôn Quỳnh Ngọc 1) được xem là một trong những hộ trồng vải đầu tiên ở xã Ea Na. Ban đầu gia đình bà Năm chỉ trồng 3 cây vải thiều xung quanh vườn nhà để ăn nhưng đến mùa vải ra sai quả, ăn không hết nên bà mang đi bán với giá 40.000 - 50.000 đồng/kg, đem lại khoản thu khoảng 30 triệu đồng/mùa. Nhận thấy hiệu quả kinh tế từ cây vải mang lại, năm 2016 bà Năm đã mạnh dạn chiết 200 cành vải giống trồng xen trong vườn cà phê. Thế nhưng, bà gặp không ít khó khăn trong việc chăm sóc vườn cây do chưa nắm được quy trình chăm sóc.

Sau khi được Hội Nông dân xã vận động, phân tích những lợi ích của mô hình kinh tế tập thể, bà cùng một số hộ dân trong thôn đã tự nguyện tham gia vào THT. Theo bà Năm, nếu như trước đây, các hộ trồng vải mạnh ai nấy làm, mỗi người mỗi kiểu chăm sóc thì nay tất cả các khâu đều làm theo quy trình, có sự thống nhất của các thành viên trong THT.

Anh Phạm Hải Nam trao đổi kinh nghiệm chăm sóc cây vải với cán bộ Hội Nông dân xã Ea Na.

Cũng như bà Năm, gia đình anh Phạm Hải Nam (thôn Quỳnh Ngọc) đầu tư trồng 1.700 gốc vải thiều trên diện tích 5 ha đất trắng. Năm 2018, vườn vải của gia đình anh bắt đầu cho ra bói nhưng cho quả rất ít và không đều do khoanh vỏ chưa đúng cách và bón phân sai thời điểm. Từ khi tham gia vào THT, anh có cơ hội được trao đổi kinh nghiệm cũng như nhận được sự hỗ trợ từ các thành viên nên đã nắm vững quy trình chăm sóc cây vải theo từng giai đoạn.

Có thể thấy, dù mới thành lập nhưng hiệu quả bước đầu mà THT mang lại đã phát huy được vai trò làm “cầu nối” giữa nông dân với các cơ quan chuyên môn; giúp các thành viên thay đổi hình thức sản xuất, biết liên kết làm ăn với nhau để nâng cao chất lượng sản xuất, góp phần nâng cao thu nhập.

Tổ hợp tác trồng vải xã Ea Na đang phối hợp với Trung tâm Chất lượng nông lâm thủy sản vùng 3 tiến hành sản xuất theo quy trình VietGAP trên diện tích 14 ha cho 9 hộ thành viên nhằm xây dựng thương hiệu cho quả vải của địa phương, góp phần nâng cao giá trị và tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm.

Tuyết Mai

Lào Cai: Hồng không hạt Tân An vào vụ thu hoạch

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Những ngày này, người dân các thôn Tân An 1, Tân An 2, Ba Xã, Tân Sơn, xã Tân An (Văn Bàn, tỉnh Lào Cai) hối hả thu hoạch quả hồng không hạt - đặc sản nổi tiếng của mảnh đất bên bờ sông Hồng, để kịp phục vụ nhu cầu của du khách đi lễ hội đền Bảo Hà (Bảo Yên).

Vườn hồng gần 35 tuổi tại thôn Tân An 1.

Hiện, xã Tân An có trên 30 ha cây hồng không hạt, tất cả đang cho thu hoạch. Sản lượng quả hồng không hạt năm nay trên 100 tấn, giảm 20% sản lượng so với năm 2018. Do đang vào đầu vụ thu hoạch, nên quả hồng Tân An bán được giá, từ 15.000 – 17.000 đồng/kg.

Năm nay, 60% lượng quả hồng Tân An được vận chuyển đi tiêu thụ tại thị trường các tỉnh: Thái Bình, Ninh Bình, Nghệ An và thành phố Hà Nội.

Những chùm hồng trĩu quả là niềm vui của người dân Tân An.

Nhiều cành hồng bị gãy do không chịu được sức nặng của quả, người dân phải chặt bỏ.

Người dân cẩn thận thu hoạch từng quả hồng.

Mỗi quả hồng đều được kiểm tra kỹ sau khi thu hoạch để đem đi ngâm.

Đối với những quả hồng trên cao, người dân phải trèo lên ngọn cây để thu hoạch, tránh hồng bị dập, sẽ bị thối khi ngâm nước…

Ngâm hồng trong nước sạch 3 – 4 ngày để khử vị chát.

Sau khi thu hoạch, ngâm nước sạch, hồng sẽ được vớt ra để ráo nước và đóng thùng, vận chuyển đi tiêu thụ.

Hồng không hạt Tân An được nhiều người chọn mua làm quà tại Lễ hội đền Bảo Hà năm 2019.

THANH NAM – ĐỨC PHƯƠNG

Hậu Giang: Một số mô hình cây ăn trái hiệu quả

Nguồn tin: Cổng TTĐT Bộ NN-PTNT

Theo Trung tâm Khuyến nông Hậu Giang, sản xuất cây ăn trái tại Hậu Giang là thế mạnh nông nghiệp của tỉnh sau cây lúa. Tổng diện tích cây ăn trái được mở rộng dần và hiện trên 38.000 ha. Sản lượng hằng năm đạt trên 370 nghìn tấn. Tỉnh đã xây dựng nhiều nhãn hiệu hàng hóa như cam Sành Ngã Bảy, bưởi Năm Roi Phú Hữu, Khóm Cầu Đúc, Chanh không hạt Hậu Giang, Quýt Đường Long Trị, Xoài Cát Hòa Lộc…

Trong những năm gần đây, việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất; nhân rộng các mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; đổi mới cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp trong tỉnh đã đem lại hiệu quả cao, nông sản hàng hóa ngày càng nhiều, góp phần phát triển kinh tế địa phương, cải thiện đời sống của nông dân.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng ngành nông nghiệp ở Hậu Giang xác định được những cây trồng chủ lực, có tiềm năng phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cao để đẩy mạnh đầu tư về khoa học kỹ thuật cũng như hỗ trợ người dân tìm đầu ra và liên kết tiêu thụ sản phẩm nhằm ổn định sản xuất cũng như nâng cao thu nhập cho người dân. Những cây trồng của tỉnh mà sản phẩm đã được bao tiêu và có đầu ra ổn định như cây Chanh không hạt, Bưởi Năm Roi... Sản phẩm của những loại cây trồng này đã được xuất khẩu sang các nước như Hà Lan, Ấn Độ, Trung Đông… đã góp phần rất lớn trong việc nâng cao thu nhập cho người dân. Sau đây là một số mô hình cây ăn trái hiệu quả.

1. Mô hình trồng mãng cầu xiêm theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm

Mãng cầu xiêm là cây ăn trái dễ trồng, người dân trồng bằng hạt chủ yếu tập trung ở huyện Châu Thành, Thị xã Ngã Bảy, trồng bằng ghép gốc bình bát tập trung ở huyện Long Mỹ, Phụng Hiệp do tình hình biến đổi khí hậu nguy cơ xâm nhập mặn việc trồng bằng ghép gốc bình bát rất phù hợp.

2. Mô hình sử dụng túi bao trái cho cây ăn trái hạn chế tác hại của sâu bệnh, nâng cao chất lượng trái, thích ứng với BĐKH

Năm 2017, Trung tâm Khuyến nông xây dựng mô hình sử dụng túi bao trái để hạn chế tác hại của sâu bệnh và nâng cao chất lượng trái trên trái xoài, bưởi và mãng cầu. Địa bàn triển khai ở các huyện, thị xã và thành phố trên toàn tỉnh. Đối tượng sản xuất của mô hình là xoài, bưởi và mãng cầu. Hiện nay, thông qua những cuộc tham quan, hội thảo và toạ đàm bà con nông dân đã thấy hiệu quả của mô hình đã tự liên hệ với Trung tâm Khuyến nông để cung cấp các loại túi bao trái cho bà con nông dân.

Mô hình đã giảm được chi phí sử dụng thuốc BVTV, tăng tỷ lệ trái loại 1 >10%, giảm phun thuốc BVTV trên 4 lần. Đây là mô hình khá hiệu quả, mang tính bền vững cao, cần được nhân rộng, thích hợp với tình hình biến đổi khí hậu như hiện nay.

3. Mô hình canh tác rải vụ xoài cát Hòa Lộc và ứng dụng bao trái xoài

Mô hình nằm trong đề tài Quy trình canh tác rải vụ xoài cát Hòa Lộc do Trường đại học Cần Thơ phối hợp với Phòng NN và PTNT huyện Châu Thành A thực hiện nhằm giảm áp lực trúng mùa được giá và tạo được sản phẩm an toàn.

Mô hình thực hiện tại ấp 3B, 2B, 3A, thị trấn Bảy Ngàn, huyện Châu Thành A với diện tích 24 ha, 54 nông dân. Đến nay, mô hình này đã lan tỏa cả huyện Châu Thành A.

Các tiến bộ kỹ thuật/quy trình đã áp dụng trong mô hình: Tỉa cành; Bón phân; Kích thích ra đọt và dưỡng đọt; Kích thích ra hoa và dưỡng hoa; Nuôi trái và kỹ thuật bao trái.

4. Mô hình trồng chanh không hạt theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm

Vào những năm 2000, cây chanh không hạt bắt đầu xuất hiện trên địa bàn huyện Châu Thành, cây chanh không hạt dễ trồng rất thích nghi điều kiện đất đai của địa phương. Tuy nhiên, bước đầu đầu ra chưa ổn định, diện tích chưa được nhiều, nhưng đến năm 2012 cho đến nay từ khi được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP tại xã Đông Thạnh thì diện tích tăng gần 1.000 ha. Cây chanh không hạt đã được HTX và Công ty Hà Lan thu mua xuất khẩu qua các nước Châu Âu.

5. Mô hình Cải tạo vườn kém hiệu quả trồng bưởi da xanh

Mô hình cải tạo vườn kém hiệu quả trồng Bưởi da xanh là một trong những mô hình tiêu biểu của huyện Long Mỹ. Huyện Long Mỹ xác định cây bưởi da xanh là cây trồng chủ lực để nhân rộng giúp người dân nâng cao mức thu nhập.

Từ khi mới bắt đầu có mô hình, năm 2009 có 22 hộ/35 ha trồng bưởi tự phát tập trung chủ yếu ở xã Thuận Hưng và Vĩnh Viễn.

Quy mô hiện nay sau khi được phổ biến, nhân rộng với 301,68 ha/405 hộ, địa bàn được mở rộng: Vĩnh Viễn, Lương Tâm, Vĩnh Thuận Đông, Xà Phiên, Thuận Hòa, Vĩnh Viễn A.

Các tiến bộ kỹ thuật/quy trình đã áp dụng trong mô hình: Sử dụng bao trái hạn chế ruồi đục trái, áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm nước; sử dụng phân hữu cơ vi sinh tăng hệ vi sinh vật trong đất, giúp cây phát triển tốt hạn chế hiện tượng thoái hóa đất.

6. Mô hình hệ thống tưới trên cây ăn trái

Tình hình diễn biến khí hậu ngày càng diễn ra gay gắt và phức tạp, tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và phát triển cây trồng. Để tiết kiệm được nguồn nước ngọt tưới cho cây trồng giúp cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện khắc nghiệt bởi khí hậu hiện nay. Năm 2016 và 2017, Trung tâm Khuyến nông xây dựng mô hình hệ thống tưới trên cây ăn trái, rau màu. Địa bàn triển khai ở các huyện, thị xã và thành phố trên toàn tỉnh. Đối tượng sản xuất của mô hình là hệ thống tưới phun ống mềm.

Sau khi được phổ biến, nhân rộng hiện nay người nông dân đã từng bước áp dụng rộng rãi trên toàn tỉnh.

Mô hình đã giảm được chi phí nhân công lao động cho khâu tưới nước tăng hiệu quả sử dụng nước >70%. Đây là mô hình khá hiệu quả, mang tính bền vững cao, thích hợp với tình hình biến đổi khí hậu như hiện nay.

T.Hiền

Dưa hấu chỉ còn 4.000-4.500 đồng/kg

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Sau một thời gian ở mức khá cao, giá dưa hấu tại TP Cần Thơ và nhiều tỉnh vùng ĐBSCL giảm mạnh trở lại từ 2.000-3.000 đồng/kg so với cách hơn 2 tuần.

Thu hoạch dưa hấu tại quận Bình Thủy, TP Cần Thơ.

Hiện các loại dưa hấu thông thường như dưa thành long, tiểu long, hắc mỹ nhân, dưa hấu đường... được nhiều nông dân bán buôn cho thương lái chỉ còn ở mức 4.000-4.500 đồng/kg, giá bán lẻ trên thị trường khoảng 5.000-8.000 đồng/kg, tùy loại. Giá dưa hấu hạt lép ở mức 5.000-6.000 đồng/kg. Giá dưa hấu giảm do đang bước vào thu hoạch rộ, nguồn cung tăng, trong khi đó mua dưa hấu trên thị trường lại có xu hướng giảm. Ngoài ra, do ảnh hưởng của trời mưa bão làm nhu cầu tiêu thụ dưa trên thị trường giảm; chất lượng trái dưa cũng giảm. Theo nhiều nông dân trồng dưa hấu ở TP Cần Thơ, với giá bán hiện nay nông dân vẫn có lời nếu năng suất ruộng dưa đạt từ 3-4 tấn/công trở lên.

Tin, ảnh: K.T

Hòa Bình: Ngọt ngào mùa nhãn Hương Chi

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Từ tháng 8/2016 sản phẩm nhãn xã Sơn Thủy (huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình) được cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể. Đây được coi như chứng thư đảm bảo cho các hộ đủ điều kiện sử dụng nhãn hiệu tập thể, duy trì và nâng cao danh tiếng, uy tín sản phẩm về chất lượng, góp phần nâng cao đời sống người dân vùng sản xuất kinh doanh nhãn Sơn Thủy.

Ngược dòng thời gian tìm hiểu, cây nhãn Hương Chi được đưa về Sơn Thủy từ năm 1989. Người có công đầu trong việc đưa cây nhãn về đồng đất xã Sơn Thủy là ông Bùi Văn Lực, hiện là Bí thư Đảng ủy xã. Lần đầu tiên trên địa bàn xã có diện tích trồng nhãn được áp dụng quy trình kỹ thuật thâm canh với 2,5ha. Mặc dù vậy trong suốt khoảng 20 năm sau đó do gặp nhiều trở ngại như thị trường, giá cả bấp bênh, vốn đầu tư và kiến thức thâm canh của người sản xuất còn nhiều hạn chế, tính lan tỏa trong cộng đồng chưa sâu rộng,... Vì vậy diện tích nhãn tăng chậm, đến năm 2010 cả xã mới chỉ đạt 38 ha.

Trong 5 năm trở lại đây, những khó khăn trên dần được tháo gỡ, nhận thức của cán bộ và người trồng nhãn có những thay đổi tích cực. Bên cạnh đó có sự giúp đỡ hiệu quả của chính quyền các cấp và các cơ quan chức năng trong việc hỗ trợ sản xuất, xây dựng thương hiệu và tiêu thụ sản phẩm, nhờ đó diện tích nhãn của xã Sơn Thủy đã tăng mạnh. Đến nay tổng diện tích trồng nhãn của xã đã lên tới 136 ha, trong đó diện tích kinh doanh cho quả là 80 ha với năng suất trung bình đạt 15 tấn/ha. Năm 2019, do thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng gay gắt triền miên, sản lượng nhãn Sơn Thủy ước đạt 400- 500 tấn (giảm khoảng 50% so với năm 2018).

Người dân Sơn Thủy giờ quý đất như vàng, nhà nào cũng thi đua chăm chỉ vun trồng cho nhãn tốt tươi. Nhãn được trồng tập trung ở các xóm Khoang, Lốc. Người dân chủ yếu trồng giống nhãn Hương Chi. Giống nhãn này được nhân giống tại đất Hưng Yên nhưng rất phù hợp với khí hậu, đồng đất Sơn Thủy. Với đặc điểm quả to, vỏ mỏng, cùi dày, ngọt dịu, thu hút khách hàng gần xa. Năm nào cũng vậy vào thời điểm từ giữa tháng 7 bà con nông dân trong xã lại tất bật thu hoạch nhãn. Năm 2019 tuy sản lượng thấp hơn năm 2018 nhưng bù lại giá bán lại cao hơn. Đầu vụ nhãn được bán với giá 35- 40.000 đồng/kg; giữa vụ khoảng 20.000 đồng/kg.

Đồng chí Bùi Văn Lực, Bí thư Đảng ủy xã cho biết: Năm 2016, nhãn Sơn Thủy được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể. Đồng thời, 34 ha nhãn của 41 hộ thành viên HTX dịch vụ nông nghiệp Sơn Thủy được Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật trao giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP. Nhờ đó, cây trồng này ngày càng có tiếng trên thị trường trong và ngoài tỉnh. Xã đang triển khai chương trình trồng nhãn sạch theo tiêu chuẩn VietGAP để giữ được thương hiệu trên thị trường và đảm bảo phát triển bền vững. Sau khi chương trình trồng nhãn VietGAP hoàn thành, xã sẽ triển khai tiếp chương trình đăng ký mã số, mã vạch để truy suất nguồn gốc nhằm giữ uy tín lâu dài, góp phần nâng cao thu nhập cho các gia đình.

Hiệu quả kinh tế của việc phát triển nhãn Sơn Thủy đã được chứng minh trong thực tế. Các hộ trồng nhãn đều quan tâm chú trọng học hỏi kỹ thuật, tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật một cách tự giác nên trình độ thâm canh ngày càng được nâng cao, cây nhãn ngày càng phát triển tốt, chất lượng sản phẩm tương đối đồng đều. Nhờ vây mà hiệu quả kinh tế cao hơn, giúp nhiều hộ trở lên khá giả.

Bà Bùi Thị Chiến ở xóm Khoang là một trong những hộ đầu tiên đưa cây nhãn Hương Chi về trồng tại xã, chia sẻ: “Nhãn năm nay được giá. Đầu vụ, gia đình bán 35.000 đồng/kg. Nhà tôi trồng khoảng 2 ha giống nhãn Hương Chi. Gia đình luôn tuân thủ quy trình kỹ thuật về chăm sóc, phòng, chống sâu bệnh, kích thích ra hoa, đậu quả, nên cây nào cũng sai trĩu. Vụ này, dự kiến thu hoạch 15- 20 tấn quả. Cứ vào vụ là thương lái từ Hà Nội, Hải Dương, Nghệ An… tấp nập đến thu mua. Đã 21 năm trồng nhãn, nhưng chưa bao giờ chúng tôi lo khó tiêu thụ”.

Nhãn Hương Chi năm nay được giá

Không ngừng nâng cao mẫu mã, chất lượng sản phẩm là mục tiêu mà gia đình anh Bùi Văn Dũng, PGĐ HTX dịch vụ nông nghiệp Sơn Thủy nói riêng, các thành viên HTX nói chung hết sức quan tâm. Anh Dũng cho biết: “Gia đình có hơn 2.000m2 trồng nhãn, năm nay cho sản lượng khoảng 7 - 8 tấn. Thực tế qua nhiều năm cho thấy, cây nhãn có thu nhập cao hơn nhiều so với trồng màu, tuy nhiên lại đòi hỏi tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật và khâu chăm sóc để đảm bảo quả to, đều, mẫu mã đẹp, ngọt sắc. Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường cạnh tranh, gia đình đã đầu tư sản xuất theo quy trình VietGAP, trong đó, thực hiện chặt chẽ việc ghi sổ nhật ký đầy đủ, ngày nào bón phân, phun thuốc, lượng thuốc, thời gian cách ly trước khi cung cấp ra thị trường... Chúng tôi đang hướng tới sản phẩm có mã QR, mã vạch để khi người tiêu dùng “check-in” bằng điện thoại là biết được nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Việc làm này nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường ngày càng khó tính và mong thời gian tới phẩm sản nhãn Sơn Thủy có thể xuất khẩu để mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn”.

Với việc chuyển đổi cây trồng đúng hướng là điều kiện để bà con nông dân Sơn Thuỷ nói riêng, nông dân các xã trên địa bàn huyện Kim Bôi nói chung tiếp tục duy trì, nhân rộng mô hình và mạnh dạn chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện, môi trường canh tác, góp phần tăng thu nhập, phát triển kinh tế hộ và đẩy mạnh kinh tế xã hội địa phương./.

Thanh Hằng - Trung tâm Khuyến nông Hòa Bình

Thanh Hóa: Liên kết sản xuất, tiêu thụ khoai tây chế biến theo chuỗi giá trị

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Chiều 16/8/2019, Sở Nông nghiệp và PTNT Thanh Hóa phối hợp với UBND huyện Nga Sơn (tỉnh Thanh Hóa), Viện Sinh học Nông nghiệp và Công ty TNHH Thực phẩm Orion Vina tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện liên kết sản xuất tiêu thụ khoai tây chế biến và triển khai kế hoạch thực hiện trong vụ Đông Xuân 2019- 2020 trên địa bàn một số huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa.

Trong những năm qua, sản xuất khoai tây phục vụ chế biến đã và đang được quan tâm cùng với các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp là động lực cho nông dân, doanh nghiệp đầu tư liên kết sản xuất. Hiệu quả kinh tế và tính ổn định trong liên kết sản xuất các giống khoai tây tại các địa phương là tiền đề quan trọng để mở rộng diện tích sản xuất. Năm 2017- 2018, mô hình liên kết sản xuất khoai tây chế biến được triển khai với diện tích 75 ha tại huyện Nga Sơn (60 ha) và huyện Hoằng Hóa (15 ha), năng suất trung bình đạt 16,26 tấn/ha, sản lượng thu mua vào nhà máy chế biến trên 1.300 tấn, đem lại thu nhập trên 100 triệu đồng/ha.

Chính vì vậy, vụ Đông Xuân 2018- 2019, mô hình sản xuất khoai tây tiếp tục được triển khai và mở rộng với quy mô 136 ha tại 3 huyện: Nga Sơn, Hoằng Hóa và Nông Cống, năng suất bình quân đạt 15,2 tấn/ha, sản lượng 2.070 tấn, tổng thu nhập trên 1 ha đạt trên 100 triệu đồng. Tổng thu nhập từ khoai tây phục vụ chế biến toàn tỉnh Thanh Hóa đạt trên 14 tỷ đồng. Công ty TNHH Thực phẩm Orion Vina chuyển trả tiền cho người dân ngay sau khi nhập khoai nên người dân và hợp tác xã vô cùng phấn khởi, tin tưởng và mong muốn tiếp tục được hợp tác trong những vụ tiếp theo. Bên cạnh đó, các đơn vị cùng phối hợp với nhau trong tuyển chọn giống khoai tây mới có tiềm năng năng suất cao, chống chịu sâu bệnh hại như bệnh mốc sương, bệnh vi-rút, bệnh héo xanh, rệp, nhện… vào sản xuất thử, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Toàn cảnh hội nghị

Từ kết quả đạt được trong những năm qua, Sở Nông nghiệp và PTNT Thanh Hóa cùng các đơn vị xây dựng phương án liên kết sản xuất để mở rộng diện tích, tối thiểu từ 200- 250 ha ở vụ Đông Xuân 2019- 2020, năng suất đạt bình quân 17- 18 tấn/ha để có sản lượng nhập vào nhà máy từ 4.500- 5.000 tấn khoai tây.

Để đạt được kế hoạch đề ra, các đơn vị và địa phương cần tiếp tục nâng cao vai trò chỉ đạo đối với sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó cần bố trí giống, thời vụ trồng hợp lý; tăng cường áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa vào sản xuất; tập trung với quy mô lớn nhằm nâng cao hiệu quả. Đồng thời có các chính sách khuyến khích phát triển và tổ chức tốt công tác dịch vụ sản xuất.

Thu Hiền - TT Khuyến nông Thanh Hóa

Đào tạo nghề trồng rau thủy canh công nghệ cao

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng, 19/8/2019
Ngày cập nhật: 20/8/2019

Trung tâm Khuyến nông TPHCM vừa trao chứng chỉ đào tạo nghề cho 20 học viên đã hoàn thành tốt nội dung khóa học dạy nghề về canh tác rau thủy canh theo hướng công nghệ cao; trong đó có 4 học viên của Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Tuấn Ngọc và 16 học viên là nông dân của phường Long Trường (quận 9). Các học viên học 30 giờ lý thuyết và 70 giờ thực hành.

Trồng rau công nghệ cao của nông dân huyện Hóc Môn

Đây là khóa học nhằm khuyến khích nông dân canh tác theo hướng công nghệ cao; giúp chủ động hơn về kỹ thuật, dinh dưỡng và giảm rủi ro, do Trạm Trình diễn và dạy nghề nông nghiệp (thuộc Trung tâm Khuyến nông TPHCM) phối hợp với UBND phường Long Trường mở lớp dạy nghề canh tác rau công nghệ cao (thủy canh).

Mục đích khóa học là nâng cao trình độ và kiến thức cho nông dân về ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp; thay đổi tập quán canh tác truyền thống; đáp ứng mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng, hướng đến cung cấp rau an toàn cho người dân TP; đáp ứng nhu cầu thị trường và đặc biệt giúp người trồng thu lợi nhuận hơn hẳn so với cách sản xuất truyền thống (đạt 30% trên mô hình).

MINH HIẾU

Yên Bái: Mù Cang Chải mất mùa sơn tra

Nguồn tin: Báo Yên Bái, 19/8/2019
Ngày cập nhật: 20/8/2019

Bản Nậm Khắt là một trong những khu vực có diện tích cây sơn tra lớn của xã Nậm Khắt, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Tranh thủ trời tạnh ráo, anh Giàng A Dì đã lên đồi thu hái quả sơn tra từ sáng sớm, nhưng lúc về cũng chỉ được trên 30 kg.

Người dân xã Nậm Khắt thu hái sơn tra đầu vụ.

Anh cho biết: "Nhà mình có trên 1 ha cây sơn tra. Năm ngoái, thu hái được 1,5 tấn, nhưng năm nay chắc chỉ được 5 - 6 tạ quả thôi. Nhà nào cũng mất mùa như thế, nhiều cây còn chẳng có quả nào”. Chúng tôi theo anh Dì lên đỉnh đồi. Đúng thật, số cây có quả chiếm tỷ lệ rất ít, đã vậy quả còn nhỏ, những đồi bên cạnh cũng tương tự.

Anh Lý A Sử - Phó Chủ tịch UBND xã Nậm Khắt, cho biết: "Xã có gần 1.000 ha cây sơn tra, trong đó có 200 ha sơn tra tự nhiên, còn lại là nhân dân trồng. Năm ngoái, toàn xã thu khoảng 650 tấn quả tươi. Năm nay, sơn tra mất mùa, dự tính sản lượng giảm đi một nửa”.

Ghi nhận tại Mù Cang Chải, không riêng gì Nậm Khắt, các đồi sơn tra ở Nậm Có, La Pán Tẩn, Lao Chải, Chế Tạo… cũng rơi vào cảnh mất mùa tương tự.

Anh Giàng A Hù - Phó Bí thư Thường trực xã Lao Chải cho biết: "Toàn xã có trên 600 ha cây sơn tra, nhưng đa phần cho quả rất ít, dự ước chỉ được gần 300 tấn. Mất mùa nhưng bù lại sơn tra năm nay lại được giá, bình quân từ 10.000 - 15.000 đồng/kg, thậm chí quả to còn được 17.000 đồng/kg”.

Theo thông tin từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mù Cang Chải, tổng diện tích cây sơn tra toàn huyện khoảng 4.500 ha, bình quân cho sản lượng 4.500 đến 5.000 tấn quả tươi. Năm nay, dự ước sản lượng chỉ còn từ 20 - 25% so với năm 2018.

Trao đổi về vấn đề này, ông Lê Trọng Khang - Phó Chủ tịch UBND huyện Mù Cang Chải cho biết: "Sơn tra mất mùa do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do tác động của biến đổi khí hậu, khô hanh kéo dài đúng vào thời kỳ phát triển của cây nên ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân do tập quán canh tác của người dân chủ yếu mang yếu tố tự nhiên, không quan tâm đầu tư, chăm sóc, bón phân cho cây sau kỳ thu hoạch”.

Một số người dân lại nói rằng, nhiều năm nay, sơn tra thường rơi vào cảnh năm được, năm mất, nguyên nhân có thể do thời tiết và chu kỳ sinh trưởng của cây theo kiểu "năm trước được mùa, thì năm sau mất mùa”.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, với những diện tích sơn tra tự trồng, sau mỗi vụ thu hoạch thì người dân mới dừng lại ở việc làm cỏ chứ chưa có sự đầu tư, chăm sóc, tái bổ sung dinh dưỡng cho cây. Đó là chưa kể những diện tích sơn tra tự nhiên hàng năm người dân chỉ lên thu hái chứ không có sự chăm sóc, đầu tư nào.

Sơn tra là cây trồng mang lại hàng chục tỷ đồng mỗi năm cho người dân Mù Cang Chải. Để phát triển hiệu quả của loại cây này, tỉnh và huyện đã và đang triển khai nhiều giải pháp như quy hoạch vùng phát triển; kêu gọi đầu tư, chế biến sâu; đăng ký nhãn hiệu "Sơn tra Mù Cang Chải”… Tuy nhiên, với tình trạng như hiện nay, rõ ràng nguồn lợi này chưa được khai thác hiệu quả và bền vững.

Hùng Cường

‘Chắp cánh’ cho hợp tác xã

Nguồn tin:  Báo Sóc Trăng

Với phương châm, tăng 20% thu nhập cho người trồng lúa bằng cách giảm chi phí đầu vào, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trên đồng ruộng, liên kết nông dân sản xuất theo hình thức tập trung làm cùng giống lúa tạo ra hàng hóa lớn, dễ dàng trong liên kết tiêu thụ lúa, cùng với đó là việc cơ cấu mùa vụ hợp lý, dùng các giống lúa chất lượng cao, có 20 HTX được đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị. Đó là một trong những mục tiêu mà Dự án VnSAT đặt ra và triển khai thực hiện tại các địa phương trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng và qua quá trình thực hiện đã mang lại nhiều thành quả tích cực cho các HTX. Qua đó, được các HTX và nông dân trong vùng dự án đồng tình hưởng ứng, đánh giá cao.

Gần 14 năm đi vào hoạt động, HTX Nông nghiệp Tín Phát, xã Kế Thành (Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng) được rất nhiều nông dân biết đến bởi đây là một trong các HTX canh tác lúa đem về nguồn thu tăng đáng kể cho hộ dân sau khi tham gia Dự án VnSAT vào năm 2016. Giám đốc HTX Nông nghiệp Tín Phát Nguyễn Văn Đậm chia sẻ: “Trước 2016, bà con canh tác lúa theo truyền thống nên sạ dầy, bón nhiều phân đạm làm cho nhiều loại dịch hại phát sinh, dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao, ảnh hưởng đến thu nhập, chất lượng lúa hạn chế bởi sử dụng các giống lúa thường, tiêu thụ khó khăn. Khi được Dự án VnSAT đầu tư, thành viên và bà con nông dân vùng dự án được tập huấn 3 giảm 3 tăng và 1 phải 5 giảm. Qua việc áp dụng đúng quy trình kỹ thuật do dự án hỗ trợ, nông dân giảm lượng giống gieo sạ từ 50kg đến 60kg giống lúa/ha, hạn chế từ 2 đến 3 lần phun thuốc bảo vệ thực vật”.

Chủ tịch HĐND tỉnh Lâm Văn Mẫn thăm kho trữ lúa tại HTX Nông nghiệp Tín Phát do Dự án VnSAT đầu tư.

Cũng theo thông tin từ ông Đậm, nếu so với bên ngoài thì năng suất lúa tại vùng dự án tăng 20%, tăng lợi nhuận 3 triệu đồng/ha. Tuy số tiền chưa lớn nhưng đã thay đổi được ý thức của nông dân trong việc sản xuất lúa gắn với bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe người sản xuất và người tiêu dùng. Bên cạnh việc triển khai các lớp tập huấn thì HTX còn được dự án đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị bằng việc xây dựng kho chứa lúa, trong đó có lò sấy tổng công suất 40 tấn, giá trị 320 triệu đồng, cùng thiết bị tách hạt công suất từ 700kg đến 1 tấn/giờ, băng tải lúa, máy đóng bao…

“Tới đây, HTX bảo quản tốt công trình, trang thiết bị được Dự án VnSAT đầu tư, tập trung xây dựng mô hình sản xuất, kinh doanh phù hợp với tình hình thực tế, khai thác hiệu quả dự án đầu tư cũng như lợi thế địa phương đã có, khuyến cáo bà con nông dân trong vùng dự án thực hiện tốt quy trình “3 giảm 3 tăng” vào đồng ruộng, giữ vững mối liên kết với doanh nghiệp khâu đầu vào và đầu ra sản phẩm lúa. Đồng thời, mở rộng mô hình cánh đồng lớn của xã từ 500ha lên 1.000ha, tiếp tục triển khai mô hình cung ứng vật tư nông nghiệp gắn liền với tiêu thụ sản phẩm, có kế hoạch vận hành lò sấy và máy tách hạt trong vụ Hè - Thu 2019, thu mua một số diện tích lúa trên địa bàn HTX để sơ chế nhằm tạo công ăn việc làm tại địa phương, giúp bà con có thu nhập thêm theo mùa vụ…” - ông Nguyễn Văn Đậm thông tin thêm.

Đánh giá về những lợi ích Dự án VnSAT đem đến cho HTX, ông Sơn Thanh Phong - Giám đốc HTX Nông nghiệp Đoàn Kết, xã Lâm Kiết (Thạnh Trị) chia sẻ: “Giờ đây, toàn thể thành viên HTX đã tiếp thu được các kiến thức trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật nên quản lý được dịch bệnh trên lúa, góp phần tăng năng suất lúa sau thu hoạch, tăng thêm lợi nhuận từ 2 triệu đến 5 triệu/ha. Hiện dự án đang đầu tư cho HTX 3 cây cầu và nhà kho, trong đó có lò sấy. Với các trang thiết bị này, HTX sẽ sấy lúa cho thành viên trong vụ Hè - Thu để trữ lúa chờ giá. Khi có đầy đủ trang thiết bị, HTX sẽ vận động nông dân tham gia vào HTX để tăng diện tích canh tác lúa nhằm tăng sự liên kết sản xuất, dễ dàng tiêu thụ lúa sau thu hoạch bằng việc ký kết doanh nghiệp bao tiêu…”.

Giám đốc Dự án VnSAT tại Sóc Trăng Huỳnh Ngọc Vân cho biết: “Trong những năm tiếp theo về việc thực hiện dự án tại tỉnh, dự án sẽ tập trung chỉ đạo và mở rộng các HTX hiện có và thành lập mới các tổ chức nông dân với quy mô trên 500ha hoặc 500 hộ gắn với phát triển cánh đồng lớn tập trung, liên kết với doanh nghiệp, chú trọng công tác nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý điều hành HTX để tạo cơ chế linh hoạt, cạnh tranh trong sàng lọc để được đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho tổ chức nông dân theo tiêu chí của dự án, phấn đấu đến cuối năm 2019 có thêm 10 HTX được Ngân hàng Thế giới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh cho phép đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị …”.

Thúy Liễu

Sản xuất sạch để tạo ra sản phẩm an toàn

Nguồn tin:  Báo Long An

Những năm qua, ngành nông nghiệp tỉnh Long An tích cực tuyên truyền, hướng dẫn nông dân sản xuất sạch nhằm tạo ra sản phẩm an toàn. Qua đó, giúp nông dân tăng năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường và hướng tới một nền nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường.

Đáp ứng nhu cầu thị trường

Hiện nay, vì lợi nhuận nên không ít người sử dụng hóa chất trong sản xuất rau, củ và tăng trọng lượng các loại thịt, ảnh hưởng đến lợi ích và sức khỏe người tiêu dùng. Vì vậy, ngành nông nghiệp khuyến cáo người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hiệu quả và không sử dụng chất cấm trong nông nghiệp nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm (ATTP) cho người tiêu dùng. Đối với cây rau, ngành cùng các địa phương quan tâm, thực hiện một số mô hình sản xuất rau, củ, quả sạch cung ứng cho người tiêu dùng. Cụ thể như mô hình sản xuất dưa lưới trong nhà màng, theo công nghệ Israel tại Hợp tác xã (HTX) Tâm Nông Việt (huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An). Điều đặc biệt ở mô hình này là dưa được trồng với quy trình bón phân được kết hợp tưới nước nhỏ giọt được dẫn đến tận gốc, theo đúng mức độ yêu cầu, tuyệt đối không sử dụng thuốc BVTV.

Theo Giám đốc HTX Tâm Nông Việt - Đinh Bạt Quy, đầu năm 2018, anh đầu tư hơn 400 triệu đồng xây dựng nhà lưới cùng hệ thống tưới nước tự động và trồng thử nghiệm hơn 1.000m2 dưa lưới TL3 có xuất xứ từ Thái Lan. “Dưa lưới từ khi trồng đến thu hoạch 65 ngày, mỗi năm trồng 4 vụ. 1.000m2 dưa ứng dụng công nghệ Israel cho năng suất 3 tấn, bán với giá trung bình 45.000 đồng/kg, thu lãi hơn 150 triệu đồng. Hiện nay, tôi đang mở rộng mô hình lên 1ha dưa lưới sạch. Việc trồng dưa lưới trong nhà màng mang lại nhiều hiệu quả, vừa giúp chắn mưa, vừa ngăn côn trùng xâm nhập, giảm chi phí sản xuất,...Bên cạnh đó, trồng dưa không sử dụng thuốc BVTV (chỉ dùng các chế phẩm sinh học tự nhiên) nên sản phẩm được người tiêu dùng rất ưa chuộng.Hiện dưa lưới sạch của HTX được tiêu thụ ở thị trường trong và ngoài tỉnh” - anh Quy chia sẻ.

Giám đốc HTX Rau an toàn Phước Hòa (huyện Cần Đước, tỉnh Long An) - Kiều Anh Dũng cho biết: “HTX có 42 thành viên với diện tích 15ha, sản phẩm đạt chứng nhận an toàn, mỗi ngày xuất ra thị trường khoảng 2,5 tấn rau. HTX còn đầu tư nhà màng sản xuất rau thủy canh với diện tích 500m2. Hiện tại, sản phẩm rau của HTX cung cấp cho thị trường trong, ngoài tỉnh và 2 chuỗi cửa hàng của HTX (tại chợ phường 2, TP.Tân An và chợ Thạnh Hóa, huyện Thạnh Hóa). Ngoài ra, HTX còn đầu tư máy gieo hạt và hệ thống nước lọc với số tiền hơn 150 triệu đồng”.

Nhằm sản xuất sản phẩm sạch, tỉnh triển khai thực hiện Đề án Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh có trên 13.364ha lúa ƯDCNC, đạt 66,82% kế hoạch; gần 1.446ha rau ƯDCNC, đạt 72% kế hoạch; khoảng 1.634ha thanh long ƯDCNC, đạt 81,7% kế hoạch. Tỉnh phấn đấu đến năm 2020, có 4 vùng sản xuất nông nghiệp ƯDCNC gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, theo đó lúa 20.000ha, thanh long 2.000ha, rau 2.000ha và bò thịt 5.000 con; có từ 1-2 doanh nghiệp nông nghiệp ƯDCNC.

Nông dân sản xuất sạch để đáp ứng nhu cầu thị trường

Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Quản lý chất lượng nông sản - Nguyễn Văn Cường cho biết: “Những năm qua, ngoài tuyên truyền nông dân sản xuất sạch, tỉnh còn tập trung triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng chuỗi nông sản, từ đó, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng các chuỗi cung cấp nông, lâm, thủy sản an toàn, kiểm soát được chất lượng từ sản xuất, sơ chế, chế biến đến tiêu thụ trên thị trường, bảo đảm ATTP, liên kết phân phối sản phẩm ở thị trường trong tỉnh. Đồng thời, xây dựng thương hiệu, tạo lòng tin của người tiêu dùng vào sản phẩm chuỗi an toàn; hình thành thói quen, tập quán tiêu dùng thực phẩm an toàn có địa chỉ, nhãn mác hàng hóa, truy xuất được nguồn gốc thực phẩm. Đến nay, tỉnh xây dựng được 12 chuỗi phân phối sản phẩm sạch (rau, gạo, thịt gà, thịt heo,…); phối hợp Ban Quản lý ATTP TP.HCM khảo sát, xây dựng, trao 9 giấy chứng nhận đủ điều kiện tham gia chuỗi và tổ chức được 14 điểm bán thực phẩm nông, lâm, thủy sản an toàn trên địa bàn tỉnh”.

“Ngoài ra, để bảo đảm ATTP trong lĩnh vực nông nghiệp, ngành tăng cường kiểm tra, giám sát. 6 tháng đầu năm 2019, chi cục thu 454 mẫu (149 mẫu rau, 195 mẫu thịt, 100 mẫu khô, 10 mẫu sản phẩm từ thịt) kiểm tra, giám sát ATTP nông, lâm, thủy sản, kết quả có 452 mẫu đạt, 2 mẫu nhiễm hàn the (2 mẫu khô chỉ vàng); kiểm nghiệm chỉ tiêu ATTP thu 52 mẫu (10 mẫu heo, 4 mẫu gà, 8 mẫu rau, 6 mẫu thanh long, 4 mẫu gạo, 6 mẫu chanh, 1 mẫu bột nghệ), kết quả 1 mẫu bò viên nhiễm Benzoat (hộ kinh doanh Cao Thị Huyền, thị trấn Tân Trụ, huyện Tân Trụ); tổ chức thẩm định 105 cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông, lâm, thủy sản, trong đó xếp loại A 17 cơ sở, loại B 88 cơ sở; tổ chức 48.906 hộ tham gia ký cam kết sản xuất an toàn, tăng hơn 28.000 hộ so cùng kỳ năm 2018” - ông Cường thông tin thêm.

Tăng cường tuyên truyền

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Đinh Thị Phương Khanh cho biết: “Để nông sản sạch có mặt ở thị trường và nông dân trên địa bàn tỉnh sản xuất có đầu ra ổn định, ngành nông nghiệp cùng chính quyền địa phương tiếp tục lồng ghép vào các hoạt động khuyến nông thường xuyên tuyên truyền về tác hại, thiệt hại của việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất rau, quả không đúng quy định; đặc biệt là tác hại của việc sử dụng thực phẩm không an toàn; không sử dụng chất cấm, chất bảo quản, phụ gia, thuốc BVTV, thuốc ngoài danh mục, tuân thủ “4 đúng” về sử dụng thuốc BVTV, thuốc thú y,… Tuyên truyền về lợi ích của việc xây dựng chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn, áp dụng quy trình thực hành sản xuất tốt (GAP, GMP). Triển khai xây dựng, nhân rộng, phát triển mô hình chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn, trước mắt tập trung cho các cơ sở sản xuất đã được chứng nhận VietGAP, sản phẩm rau, thịt,...; liên kết chặt chẽ giữa nhà quản lý, nhà khoa học, nông dân, doanh nghiệp và HTX,... để bảo đảm nền sản xuất nông nghiệp hiện đại an toàn theo chuỗi giá trị; từ đó, gia tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống của lực lượng lao động trong nông nghiệp vốn có thu nhập thấp và không ổn định; tiếp tục phối hợp Ban Quản lý ATTP TP.HCM xây dựng chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn.

Bên cạnh đó, tăng cường công tác quản lý nhà nước về quản lý thị trường, tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các sản phẩm bảo đảm yêu cầu về chất lượng và vệ sinh ATTP chiếm lĩnh thị trường trong, ngoài tỉnh. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ thông tin thị trường đối với từng sản phẩm hàng hóa; tổ chức quản lý, sử dụng hiệu quả các chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể và thương hiệu đã xây dựng, được bảo hộ gắn với phát triển chuỗi giá trị. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm, phát huy vai trò của nhân dân trong việc đấu tranh, phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm quy định về quản lý vật tư nông nghiệp,…

Riêng sở tiếp tục hỗ trợ cơ sở sản xuất, kinh doanh chứng nhận thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), cơ sở đủ điều kiện bảo đảm ATTP, lấy mẫu giám sát, xác nhận sản phẩm an toàn khi đến tay người tiêu dùng; tổ chức tái kiểm tra 100% các cơ sở xếp loại C và xử lý dứt điểm các cơ sở bị xếp loại C; tổ chức xúc tiến thương mại, kết nối sản xuất – tiêu thụ và quảng bá sản phẩm an toàn có xác nhận”./.

Huỳnh Phong

Hướng đi mới cho muối truyền thống

Nguồn tin:  Báo Quảng Bình

Muối tre được biết đến không chỉ là một thứ gia vị mà còn có tác dụng cải thiện sức khỏe và sắc vóc, đặc biệt góp phần hỗ trợ tích cực trong việc chữa trị một số bệnh mãn tính. Chính vì thế, sản phẩm muối tre luôn nhận được sự quan tâm của người tiêu dùng và nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài nước.

Để tìm hiểu ngọn nguồn ra đời của sản phẩm muối tre, chúng tôi đã về thăm cánh đồng muối ở xã Quảng Phú, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình nơi có nghề làm muối lâu đời nhất của tỉnh Quảng Bình và là địa phương duy nhất đến thời điểm này vẫn còn lưu giữ được nghề truyền thống này. Làng muối truyền thống Quảng Phú cũng là nơi bắt đầu cho cơ duyên để sản phẩm muối tre ra đời.

Sản phẩm muối tre được đối tác Hàn Quốc ưa chuộng và người tiêu dùng trong nước tin dùng.

Xã Quảng Phú hiện có hơn 73ha diện tích sản xuất muối, mỗi vụ muối ở đây kéo dài trong thời gian 4 tháng, từ tháng 3 đến tháng 7 âm lịch, với năng suất mỗi vụ từ 5 đến 7 nghìn tấn. Theo quan sát, quy trình làm muối được bảo đảm hết sức chặt chẽ qua các bước từ nguồn nước biển tự nhiên đưa vào đồng ruộng đến ao lắng, sân phơi…

Ông Trương Ngọc Cảnh, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Quảng Phú chia sẻ, để bảo đảm chất lượng muối cung ứng ra thị trường, Chi cục Quản lý chất lượng nông, lâm sản và thủy sản tỉnh thường xuyên lấy mẫu để kiểm tra định kỳ. Cùng với đó, chính quyền xã đang chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới thành lập hợp tác xã trong thời gian tới.

Theo ông Trần Đình Hải, Phó trưởng Phòng Quản lý chất lượng chế biến nông lâm thủy sản và thương mại, Chi cục Quản lý chất lượng nông, lâm sản và thủy sản tỉnh, thay vì sản xuất và đưa ra thị trường sản phẩm muối tinh khiết, hiện một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã mạnh dạn đầu tư trang thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ chế biến sâu các sản phẩm từ muối. Trong đó, muối tre là một trong những sản phẩm mới được thị trường ưa chuộng.

Nhằm tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có của xã Quảng Phú, năm 2015, vợ chồng ông Nguyễn Duy Hải và bà Nguyễn Thị Lý ở thị xã Ba Đồn đã mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất muối tre tại xóm Nam, xã Vạn Trạch, huyện Bố Trạch theo phương pháp truyền thống của người Hàn Quốc.

Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, quy trình làm muối tre bắt đầu từ công đoạn phơi khô muối biển dưới ánh nắng mặt trời, sau đó cho vào từng đốt tre tươi, già trên 3 năm tuổi. Đầu đốt tre đượt vít bằng đất sét, sau đó đốt bằng củi thông.

Quá trình đốt kéo dài khoảng 8-15 giờ đồng hồ cho tới khi tre cháy hết chỉ còn cột muối kết dính bền chắc bên trong. Những cột muối sau khi nung sẽ được nghiền thành bột, tiếp tục cho vào khúc tre mới để nung.

Quá trình này được thực hiện liên tục 8 lần để muối hấp thu được nhiều chất từ cây tre nhất. Lần nung thứ 9 đòi hỏi nhiệt độ cao hơn 1.300 độ để muối tre bên trong tan chảy như nham thạch. Muối nguội sẽ tạo thành một tảng cứng như đá. Việc nung lặp đi lặp lại như thế để xử lý, loại bỏ các tạp chất muối, đồng thời tối ưu hóa việc hấp thu các khoáng chất từ tre, đất sét.

Hiện, sản phẩm muối tre của ông Hải và bà Lý không chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng của đối tác đến từ Hàn Quốc mà còn được tiêu thụ ở thị trường nội địa. Ông Hải tâm sự, mỗi tháng, cơ sở sản xuất khoảng 2 tấn muối tre; mỗi năm, xuất khẩu sang Hàn Quốc trung bình 5 đến 6 đơn hàng, mỗi đơn hàng gần 2 tấn muối đã được chế biến. Hiện thị trường tiêu thụ sản phẩm muối tre ở Hàn Quốc đang rất ổn định. Bởi muối tre được sản xuất trên công nghệ hiện đại nên an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng.

Muối tre được nung đi nung lại chín lần để thải độc lọc tinh.

Trước mắt ngoài thị trường Hàn Quốc, cơ sở sản xuất muối tre của vợ chồng ông Nguyễn Duy Hải đã xây dựng được chuỗi hệ thống tiêu thụ tại các siêu thị miền Trung và miền Bắc. Tuy lượng hàng tiêu thụ còn chưa cao nhưng hy vọng trong thời gian tới, với những phương pháp quảng bá mới, cơ sở sản xuất muối tre sẽ dần khẳng định thị phần, mở rộng thị trường và thu hút thêm lượng người tiêu dùng.

Cũng theo ông Nguyễn Duy Hải, muối tre ngoài công dụng như một loại gia vị để nấu ăn hàng ngày và bổ sung nhiều khoáng chất có lợi cho sức khỏe con người còn có tác dụng chữa các bệnh về răng miệng, viêm họng, ngăn ngừa béo phì, bệnh tiểu đường, viêm loét dạ dày và làm đẹp… Sản phẩm muối tre từ nguyên liệu muối, than nung, nguồn nước và muối thành phẩm đều đã được các cơ quan chức năng kiểm nghiệm và chứng nhận bảo đảm an toàn.

Có thể thấy rằng các sản phẩm qua chế biến (không để dạng thô) không chỉ nâng cao được giá trị mà còn góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ, đồng thời tạo động lực tham gia từ các doanh nghiệp vào khâu liên kết, tiêu thụ, tạo nên chuỗi sản phẩm giá trị cao. Mô hình sản xuất liên kết theo chuỗi đang là hướng đi mới giúp người nông dân nâng cao giá trị sản phẩm một cách bền vững.

Trong đó, việc huy động doanh nghiệp liên kết từ khâu tiêu thụ, chế biến các sản phẩm mới có giá trị là mắt xích quan trọng trong việc thực hiện chuỗi giá trị nông, lâm, ngư nghiệp và thực hiện quy mô các sản phẩm sạch, tiện ích và đáp ứng tốt nhu cầu người tiêu dùng như các loại bột rau củ, loại trà hữu cơ...trong đó có sản phẩm muối tre.

Hiền Phương

Thu nhập khá nhờ chăn nuôi tổng hợp

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Với mô hình chăn nuôi gia cầm tổng hợp, mỗi năm anh Nguyễn Văn Hùng (xã Bình Thành, Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) thu lãi hơn 150 triệu đồng.

Chiếc máy ấp trứng giúp anh Nguyễn Văn Hùng chủ động nguồn giống

Vì sinh kế khó khăn nên sau khi lập gia đình, anh Nguyễn Văn Hùng, ngụ tại thôn Tam Hiệp, Bình Thành phải bôn ba nơi đất khách quê người. Ròng rã 10 năm trời, anh làm thuê ở Lào và Thái Lan với đủ mọi công việc. Thời gian đó cũng là lúc người con xứ Huế trăn trở phương kế làm ăn, những mong trở về quê hương, đoàn tụ với gia đình và phát triển kinh tế lâu dài.

Anh Hùng nhớ lại: “Khi qua Thái Lan, thấy cách làm trang trại chăn nuôi gia cầm của họ tôi rất thích. Thế là dù tiền công ít, tôi cũng xin vào làm cho bằng được. Mình phải làm mới tích góp được kinh nghiệm, lương có thể thấp nhưng đó là những kinh nghiệm nếu có tiền cũng chưa chắc học được”.

Vất vả tại trang trại nơi xứ người, vốn liếng tích cóp cũng kha khá, anh Hùng tự tin lập nghiệp. Về Việt Nam, năm 2009, anh bắt đầu xây dựng cơ ngơi tại Bình Thành. Chẳng ngờ ngay từ lứa nuôi đầu tiên, bao nhiêu công sức, tiền bạc của anh “tan thành mây khói”.

Người đàn ông sinh năm 1967 nhớ lại: “Tôi mua về 10.000 con chim cút để nuôi, ai ngờ chim chết đến quá nửa. 200 triệu đồng tiền vốn liếng đầu tư chuồng trại, con giống, thức ăn lần lượt đội nón ra đi…”.

Đó là quãng thời gian u ám nhất của Hùng. Tưởng anh sẽ bỏ cuộc, lại khăn gói bươn chải phương xa, nhưng anh đã không nản chí. Nhận thấy chế độ dinh dưỡng chưa phù hợp, anh thay đổi cách chăm sóc (thì ra, môi trường nuôi của địa phương khác trang trại nơi anh từng làm việc, anh phải cải tiến để “o bế” đàn chim cút).

Tằn tiện sinh sống qua ngày, chăm chim cút như trông con mọn, không phụ công người, sau 45 ngày nuôi, lứa chim sống sót bắt đầu cho trứng. Cầm thành quả trên tay, anh Hùng mừng rơn, công sức bao ngày cuối cùng cũng được đền đáp.

Không dừng lại ở nuôi chim cút, anh mở rộng sang nuôi các loài mới, nào chim trĩ đỏ, vịt trời, ngan và gà thả vườn. Năm 2015, giai đoạn thịt vịt trời “lên ngôi”, anh ra tận Bắc Giang, bỏ ra 70 triệu đồng mua bằng được 200 con vịt trời bố mẹ.

“Lúc ấy ai cũng bảo tôi liều, “rước” vịt với giá trên trời về nuôi”, anh Hùng cười nhớ lại. Thế nhưng nhờ đàn vịt trời ấy, anh Hùng đã kiếm được bộn tiền. “Giá vịt trời khi đó rất đắt, trung bình vịt thịt là 250 nghìn đồng/con. Khi lên đến đỉnh điểm, đàn vịt trời dao động tầm 2.000 con, mang lại thu nhập cao. Chưa kể mình bán trứng và cung cấp giống, nguồn thu nhân lên”, anh nói.

Vẫn chưa hài lòng, mong muốn tận dụng lợi thế, tiết kiệm chi phí, anh Hùng dốc vốn, mua về máy ấp trứng, chủ động ngay từ nguồn giống. “Khoe” với chúng tôi chiếc máy ấp trứng Nhật Bản, mỗi lần có thể ấp 10.000 trứng gà, anh hồ hởi: “Không riêng máy ni, tôi còn sắm thêm 3 chiếc máy ấp trứng nữa, kịp đáp ứng lúc thị trường giống gia cầm khan hiếm”.

Hiện nay, trang trại của anh Hùng đang nuôi 3.000 con chim cút đẻ, hàng trăm con ngan, gà thả vườn. Vào lúc cao điểm, số lượng vịt trời anh nuôi lên đến 500-1.000 con. Hàng năm, trừ đi chi phí, việc chăn nuôi gia cầm mang lại cho gia đình anh hơn 150 triệu đồng.

Bà Cao Thị Dậu, Chủ tịch Hội Nông dân xã Bình Thành, thông tin: “Trang trại chăn nuôi tổng hợp của anh Nguyễn Văn Hùng có chu trình khép kín, chủ động từ khâu đầu vào, đầu ra khá ổn định. Đây là mô hình chăn nuôi điển hình ở xã, phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu tại địa phương…”.

Theo bà Dậu, thời gian tới, ngoài khuyến khích, định hướng để mô hình phát triển bền vững, Hội Nông dân xã sẽ tạo điều kiện tối đa để các hội viên nông dân tiếp cận mô hình này, học hỏi kinh nghiệm chăn nuôi đa dạng của anh Nguyễn Văn Hùng.

Bài, ảnh: Mai Huế

Khởi nghiệp bằng nuôi chim bồ câu Pháp

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Nuôi chim bồ câu Pháp thương phẩm, bồ câu Pháp giống, anh Trịnh Văn Trường, đoàn viên thanh niên thôn Bồn Thôn, xã Trung An (Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) thu lãi hơn 150 triệu đồng mỗi năm.

Từ nuôi chim bồ câu Pháp, anh Trịnh Văn Trường (bên phải) thu lãi mỗi năm hơn 150 triệu đồng.

Nung nấu ý định lập nghiệp tại quê nên sau khi tích góp được ít vốn trong thời gian làm công nhân, anh Trường tìm hiểu các mô hình chăn nuôi trong và ngoài tỉnh, năm 2016 anh quyết định đầu tư nuôi chim bồ câu Pháp. Anh cho biết, thời điểm đó tại địa phương mô hình này chưa phát triển nhiều. Anh mày mò, học hỏi kiến thức, kỹ thuật nuôi giống bồ câu ngoại này trên sách, báo. Anh chỉ đầu tư mua giống ban đầu, sau đó có thể tự cung ứng lứa giống mới vừa giảm được chi phí đầu tư vừa có nguồn giống bảo đảm. Ngay từ khi bắt đầu nuôi, anh đã xây dựng chuồng trại kiên cố với tổng kinh phí đầu tư khoảng 150 triệu đồng.

Anh Trường chia sẻ: Bồ câu Pháp rất dễ nuôi, thức ăn chủ yếu là ngô (chiếm 70%) và cám, ăn 2 lần/ngày. Với chim mẹ thì mỗi ngày phải cho ăn thêm và phải thường xuyên vệ sinh chuồng trại; thức ăn, nước uống phải sạch sẽ, không bị nấm mốc. Nếu chim bồ câu Pháp bị bệnh thường là bệnh Newcastle (gà rù), thương hàn, vì vậy nên tiêm vắc-xin phòng bệnh đúng định kỳ. Giống chim bồ câu Pháp có khả năng sinh sản rất đều và cao. Mỗi con bồ câu mái sau 4 - 5 tháng tuổi bắt đầu đẻ lứa đầu, mỗi lứa đẻ 2 trứng; trung bình mỗi con chim giống sẽ đẻ từ 8 - 10 lứa/năm. Sau khi ấp 16 - 18 ngày trứng nở, chim con được chim bố, mẹ chăm sóc tại chuồng, sau khoảng 25 ngày, khi đạt đủ cân nặng thì có thể xuất chuồng bán thương phẩm. Giá một đôi bồ câu giống khoảng hơn 200.000 đồng; bồ câu thương phẩm 140.000 đồng/đôi. Chim bồ câu tự ấp trứng và nuôi con, mỗi cặp sinh sản được bố trí nuôi trong lồng riêng, thích hợp với môi trường nuôi nhốt, kháng bệnh cao, trọng lượng đạt cao hơn các giống chim bồ câu bình thường.

Để có được thành công như ngày hôm nay, anh cũng đã trải qua những lúc thất bại. Anh Trường tâm sự: Lúc đầu khởi nghiệp, ngoài khó khăn về vốn thì tôi chưa có kỹ thuật, kinh nghiệm thực tế khi chăm sóc chim. Dù là chim bồ câu Pháp dễ nuôi, ít dịch bệnh nhưng ngay lứa đầu tiên, khi nhập vắc-xin để tiêm phòng cho chim, do tôi bảo quản không đúng cách dẫn đến việc sau khi được tiêm chim chết hơn một nửa. Anh Trường cho rằng dù thiệt hại kinh tế nhưng bù lại mình có thêm kinh nghiệm, có quyết tâm đầu tư thêm. Năm đầu tiên anh nuôi 100 đôi bồ câu Pháp, đến nay anh có 500 đôi bồ câu sinh sản và 100 đôi hậu bị. Sau khi trừ chi phí, mỗi năm anh thu lãi hơn 150 triệu đồng.

Hiện nay, ngoài việc nuôi bồ câu Pháp thương phẩm, bán bồ câu giống cho các cơ sở chăn nuôi khi có yêu cầu, anh Trường còn đi thu mua chim bồ câu thương phẩm cho các cơ sở kinh doanh ăn uống. Anh dự định sẽ mở rộng chuồng nuôi chim, đầu tư để nuôi khoảng 2.000 đôi chim bồ câu Pháp, đáp ứng nhu cầu thị trường hiện nay. Anh Trường sẵn sàng giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm nuôi chim bồ câu Pháp với bất kỳ ai có cùng chí hướng.

Anh Vũ Thanh Tùng, Bí thư Đoàn Thanh niên xã Trung An cho biết: Anh Trịnh Văn Trường là thanh niên tiêu biểu trong phong trào thanh niên lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng ở địa phương. Việc gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh, chăn nuôi như anh Trường cũng là một trong những hoạt động để thu hút, đoàn kết, tập hợp thanh niên tham gia tổ chức đoàn, hội.

Xuân Phương

Heo sạch bệnh dịch tả châu Phi đang hút hàng

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Hiện nay, giá heo hơi sạch bệnh trên địa bàn TP Cần Thơ đang tăng lên từng ngày. Các tiểu thương thu mua cho biết, 1 tạ heo hơi đang có giá trên 31 triệu đồng, với mức giá này người chăn nuôi thu được lợi nhuận và hạn chế được tình trạng do ảnh hưởng bệnh dịch tả heo châu Phi (DTHCP) nên heo hơi bán chậm, thậm chí heo tới lứa xuất chuồng nhưng không có thương lái thu mua. So với đầu tháng 8-2019, heo hơi chỉ có giá 28-29 triệu đồng/tạ. Nhiều hộ chăn nuôi heo đang có xu hướng dự trữ heo chờ tăng thêm giá, do nguồn heo sạch bệnh trên địa bàn TP Cần Thơ còn ít.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ cho biết, heo tới lứa trước khi xuất bán đều được ngành thú y kiểm tra, xét nghiệm và xác nhận không nhiễm bệnh DTHCP, đồng thời thương lái cũng căn cứ vào xét nghiệm này để thu mua heo. Ngành nông nghiệp TP Cần Thơ khuyến cáo bà con chăn nuôi nên bán heo khi tới lứa xuất chuồng và không nên dự trữ chờ giá bởi bệnh DTHCP vẫn còn xuất hiện ở một số địa phương trên địa bàn TP Cần Thơ. Theo kết quả thống kê, ngày 14-8-2019, bệnh DTHCP phát sinh thêm tại 53 hộ chăn nuôi của 38 ấp, khu vực thuộc 24 phường, xã của 7 quận, huyện (Bình Thủy, Ô Môn, Thốt Nốt, Phong Điền, Thới Lai, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh). Tổng đàn heo trong ổ dịch là 1.178 con; số heo ngành thú y đã tiêu hủy là 945 con, khối lượng 61.189kg. Từ khi xuất hiện bệnh trên địa bàn thành phố (tháng 5-2019) đến hết ngày 14-8-2019, bệnh DTHCP đã xảy ra tại 1.623 hộ chăn nuôi heo của 9 quận, huyện. Tổng số heo trong ổ dịch là 50.916 con (chiếm khoảng 40% tổng đàn heo nuôi trên địa bàn), số bệnh là 22.953 con, chết 9.218 con, số heo tiêu hủy là 44.416 con (ngành thú y tiêu hủy 44.003 con, khối lượng là 2.555,3 tấn và chủ hộ tự tiêu hủy 413 con). Ngành nông nghiệp TP Cần Thơ tiếp tục thực hiện các biện pháp dập dịch, đồng thời hướng dẫn người dân nuôi heo ứng dụng biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, ngăn chặn bệnh dịch lây lan…

H.VĂN

Cải tạo giống hơn 200 con bò theo hướng chuyên thịt

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Đã có 140 con bò cái được Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bình Thuận chọn thực hiện mô hình cải tạo giống bò theo hướng chuyên thịt cao sản bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo trong thời gian qua. Theo đó số lượng bò cái trên được phối từ tinh bò đực giống BBB và Red Angus đã cho bê lai sơ sinh đạt 24- 30 kg/con, ngoại hình to lớn, thể hiện được tính ưu thế lai, có giá trị. Giá bê lai được bán từ 3 triệu – 5 triệu đồng/con, đem lại hiệu quả kinh tế cho những hộ được chọn triển khai mô hình. Với mô hình cải tạo giống bò thành công này, Trung tâm Khuyến nông tỉnh tiếp tục phối giống thêm cho 66 con cái cho những hộ khác tham gia mô hình vào cuối năm nay. “Qua mô hình này, Trung tâm Khuyến nông tỉnh sẽ giúp người chăn nuôi gia súc nâng cao tầm vóc đàn bò, đồng thời cung cấp nguồn thịt có chất lượng dinh dưỡng cao cho người tiêu dùng tại các siêu thị trong và ngoài tỉnh’, ông Nguyễn Tám, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh cho hay.

Nuôi bò lai theo hướng chuyên thịt.

T. Kh

Chế phẩm sinh học trong chăn nuôi ngăn chặn dịch tả lợn Châu Phi

Nguồn tin: VOV

Kết quả thử nghiệm sử dụng chế phẩm vi sinh trộn vào thức ăn chăn nuôi cho thấy, đàn lợn phát triển khoẻ mạnh nếu kết hợp với biện pháp an toàn sinh học.

Sau hơn 6 tháng kể từ khi xảy ra ổ dịch tả lợn Châu Phi đầu tiên tại tỉnh Hưng Yên, đã có gần 4 triệu con lợn phải tiêu hủy, chiếm khoảng 15% tổng đàn lợn của cả nước.

Trong khi nhiều hộ chăn nuôi trong xã Phương Đình, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội xót xa nhìn đàn lợn phải tiêu hủy vì dịch tả lợn Châu Phi, thì nhờ áp dụng các biện pháp an toàn sinh học đồng thời kết hợp sử dụng chế phẩm sinh học nên đến nay, đàn lợn 200 con của gia đình ông Lê Viết Thể ở thôn Địch Trung trong xã Phương Đình vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Dự kiến khoảng hơn 1 tháng nữa hơn một nửa số lợn này sẽ được xuất chuồng, đem lại thu nhập hàng trăm triệu đồng nhờ giá lợn đang ở mức cao.

"Chế phẩm này đã sử dụng thử vài tháng thấy hiệu quả tốt, mặc dù trong thời điểm dịch tả lợn Châu Phi đang diễn biến phức tạp nhưng đàn lợn vẫn khỏe mạnh. Gia đình đang sử dụng chế phẩm men vi sinh để tăng cường sức đề kháng để phòng dịch", ông Thể chia sẻ.

Chế phẩm sinh học trong chăn nuôi có thể ngăn chặn dịch tả lợn Châu Phi. (Ảnh minh họa: KT)

Tại một số địa phương như: Hưng Yên, Hà Nội, Thừa Thiên Huế, mặc dù nằm trong vùng dịch nhưng do sử dụng thức ăn có bổ sung men vi sinh kết hợp chăn nuôi an toàn sinh học, đàn lợn của các hộ thử nghiệm vẫn an toàn, trong khi nhiều hộ đã phải tiêu hủy lợn.

Bà Lưu Thủy Trâm, Phó Tổng giám đốc Công ty Bio Spring - doanh nghiệp sản xuất chế phẩm sinh học cho biết, thử nghiệm trên một số mô hình liên kết với người dân cho thấy, chế phẩm vi sinh probiotic của công ty đã góp phần giảm tỉ lệ tiêu tốn thức ăn từ 5%-6%, làm giảm tỉ lệ lợn chết và tăng cường sức đề kháng, sức khỏe của đàn vật nuôi được tăng lên đáng kể.

"Khi bổ sung chế phẩm vi sinh (probiotic) vào trong thức ăn cho vật nuôi, bà con có thể giảm chi phí thức ăn chăn nuôi. Theo kết quả thực nghiệm ở các chuồng trại, tiêu tốn thức ăn có thể giảm 5,6%, một tác dụng nữa là giảm mùi hôi chuồng trại từ 55%-60%, hạn chế ô nhiễm môi trường sống của người dân. Hơn nữa, tỷ lệ tăng trọng đàn vật nuôi có thể lên tới 3,3% so với những lô chuồng đối chứng không sử dụng chế phẩm.

Theo Cục chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chế phẩm sinh học gồm các vi sinh vật có lợi (probiotic), các enzyme tiêu hóa đã cải thiện sức khỏe, tăng khả năng chuyển hóa thức ăn và sinh trưởng của vật nuôi. Probiotic là các vi sinh vật sống, chủ yếu thuộc 3 nhóm: Vi khuẩn Lactic, bào tử Bacillus và nấm men Saccharomyces, được phân lập từ môi trường hoặc từ đường ruột của người và động vật, khi bổ sung cho vật nuôi sẽ có ảnh hưởng tích cực cho vật chủ.

Qua nghiên cứu mô hình thí điểm ở các địa phương, việc sử dụng chế phẩm vi sinh probiotic trong thức ăn chăn nuôi có thể hạn chế được bệnh dịch tả lợn Châu Phi. Thực tế chăn nuôi sinh học còn cho chất lượng thịt rất tốt, giảm chất thải ra môi trường. Trong khi chờ sản xuất được vaccine, người chăn nuôi có thể áp dụng mô hình "An toàn dịch bệnh kết hợp an toàn sinh học và chế phẩm vi sinh". Tuy nhiên, việc làm này phải được thực hiện thường xuyên và áp dụng liên tục trong thời gian dài mới đem lại hiệu quả.

Khẳng định hiệu quả của chế phẩm sinh học trong chăn nuôi an toàn, ông Nguyễn Xuân Dương, quyền Cục trưởng Cục chăn nuôi cho biết, trước mắt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tổng kết quy trình sử dụng chế phẩm vi sinh để đưa vào ứng dụng thực tế, đồng thời rà soát quy trình chăn nuôi an toàn sinh học để ban hành hướng dẫn mới về an toàn sinh học.

"Biện pháp kỹ thuật rất quan trọng là áp dụng chăn nuôi an toàn sinh học với sử dụng các chế phẩm vi sinh. Đồng thời kiểm soát nguồn dịch bệnh vào khu chăn nuôi phải làm tốt, kết hợp sử dụng các chế phẩm để tăng cường sức đề kháng của vật nuôi thì hoàn toàn có thể kiểm soát được dịch tả lợn Châu Phi ngay trong điều kiện dịch diễn biến phức tạp", ông Nguyễn Xuân Dương nói.

Theo kế hoạch, sử dụng chế phẩm sinh học kết hợp chăn nuôi an toàn ngăn chặn dịch tả lợn Châu Phi, các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang tăng cường phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức tập huấn, hỗ trợ và hướng dẫn người chăn nuôi trên cả nước sử dụng chế phẩm sinh học. Trong thời điểm hiện nay, đây là giải pháp hữu hiệu khi vaccine dịch tả lợn Châu Phi đã và đang được nghiên cứu.

Minh Long/VOV1

Doanh nghiệp Việt lại ‘nháo nhào’ nuôi gia cầm

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Từ sau khi có dịch tả heo châu Phi bùng nổ, thời gian gần đây, hàng loạt doanh nghiệp, chủ trại ở nước ta lại nháo nhào đầu tư, chuyển dịch sang chăn nuôi gia cầm để tạo nguồn thịt thay thế. Trong khi đó, giá thịt gà nhập về Việt Nam hiện khá rẻ, chỉ có 18.000 đồng/kg.

Theo số liệu của Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - NN-PTNT), chỉ trong 6 tháng đầu năm, tổng đàn gia cầm của cả nước đã tăng tới 7,5% và sản lượng trứng gia cầm đạt gần 7 tỷ quả, tăng 11,4%. Nhiều nơi chăn nuôi heo bị dịch bệnh, các chủ trại đang ồ ạt chuyển sang chăn nuôi gia cầm. Nhanh nhạy chuyển dịch có mặt lợi là sớm đáp ứng nguồn thịt thay thế, nhưng ồ ạt và tự phát sẽ gây hậu quả khi “cung” vượt “cầu”.

Mổ xẻ cơ cấu các loại sản phẩm chăn nuôi, ông Nguyễn Xuân Dương, quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi, cho rằng, “tỷ lệ vàng” ở nhiều quốc gia là heo chiếm khoảng 40%, đàn gia cầm khoảng 40%, còn lại các sản phẩm khác chiếm khoảng 20%. Nhưng ở Việt Nam hiện nay thì heo lại chiếm tới 70% cơ cấu sản lượng thịt, trong khi gia cầm chỉ có khoảng 20%, trâu bò chiếm khoảng 7%, còn lại là các loại thịt cá khác. Vì vậy, Bộ NN-PTNT đã có chủ trương nâng tỷ lệ gia cầm và đại gia súc trong cơ cấu các loại thịt, nhưng cũng chỉ tăng thêm khoảng 7% đối với gia cầm và thêm 5% đối với bò thịt. Còn nếu tăng nóng thịt gia cầm thì lại gây nhiều rủi ro cho chính người chăn nuôi.

Trong khi đàn gia cầm trong nước đang đứng trước nguy cơ tăng nóng, khủng hoảng thừa, thua lỗ kéo dài thì hiện nay, “rủi ro kép” lại đang khiến các nhà đầu tư lẫn chủ trại phải đối mặt khi giá gà Mỹ nhập vào Việt Nam rẻ đến ngỡ ngàng.

Báo cáo từ Tổng cục Hải quan cho biết, trong 6 tháng đầu năm nay, các doanh nghiệp đã nhập khẩu 62.400 tấn thịt gà các loại từ Mỹ về Việt Nam, với giá trị nhập khẩu là 48,6 triệu USD. Tính trung bình, thịt gà Mỹ về Việt Nam chỉ dưới 18.000 đồng/kg. Dự báo, những tháng cuối năm, lượng nhập khẩu có thể gia tăng nếu các loại nông sản ở Mỹ còn khó khăn về đầu ra.

PHÚC HẬU

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop