Tin nông nghiệp ngày 25 tháng 11 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 25 tháng 11 năm 2020

Ngọt thơm mùa cam Vàng

Nguồn tin: Báo Hà Giang

Cuối Thu, tiết trời se se lạnh cũng là lúc mùa cam Vàng, đặc sản của Hà Giang được thu hoạch. Xuôi về các huyện vùng thấp, những người làm vườn đang tất bật thu hái trái cam chín vàng, mọng nước. Cây cam Vàng không những giúp người dân thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu trên đất quê hương.

Thu hoạch cam Vàng ở thôn Tân Bình, xã Tân Trịnh (Quang Bình).

Về xã Đồng Yên (Bắc Quang), mùa này những vườn cam Vàng sai trĩu quả đang độ chín. Hiện, toàn xã có 198 ha trồng cam, trong đó, gần một nửa diện tích là cây cam Vàng. Với trình độ thâm canh và kinh nghiệm sau nhiều năm trồng cam, người dân trong xã đã không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình chăm sóc cam để tạo thành vùng sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Theo tính toán của xã, mỗi ha trồng cam cho thu hoạch bình quân 10 tấn quả, thu nhập khoảng 70 - 100 triệu đồng. Nhờ đó, cây cam được xác định là thế mạnh phát triển kinh tế của địa phương. Tuy nhiên, năm nay sức tiêu thụ còn chậm, người dân đối mặt với tình trạng được mùa, mất giá.

Anh Nguyễn Văn Hậu, thôn Phố Cáo, xã Đồng Yên (Bắc Quang) chăm sóc vườn cam Vàng. Ảnh: MỘC LAN

Anh Nguyễn Văn Hậu, thôn Phố Cáo cho biết: “Nhà tôi trồng cam được 4 năm nay, với diện tích 1 ha và 600 gốc cam Vàng. Thường tôi hay dùng phân gà đã qua xử lý để bón cho cây, nhằm tạo độ tơi xốp đất và giúp cây cam sinh trưởng, phát triển tốt. Bên cạnh đó, sử dụng thuốc trừ sâu tuân thủ đúng quy trình hướng dẫn. Đây là năm thứ 2 vườn cam cho thu hoạch, dự kiến được 10 tấn quả. Nếu như năm ngoái giá bán cam đạt 8 - 10 nghìn đồng/kg thì bây giờ thấp hơn và chỉ đạt 5 - 6 nghìn đồng/kg. Hầu như các nhà vườn đang bán lẻ, không có nhiều thương lái vào mua. Chúng tôi mong tỉnh, huyện và các ngành chuyên môn đẩy mạnh các giải pháp tiêu thụ, tìm đầu ra cho sản phẩm cam Vàng”.

Cùng lãnh đạo xã Tân Trịnh, chúng tôi đến thăm vườn cam của ông Nguyễn Đình Trụ, thôn Tân Bình. Đây là một trong những vườn cam Vàng được đánh giá đẹp nhất huyện Quang Bình, có tổng số 1.300 gốc. Theo ông Trụ, bí quyết để chăm sóc cây cam phát triển bền vững là phải nhận biết và trị dứt điểm bệnh ghẻ lá trong năm đầu tiên hoặc năm thứ 2. Về phân bón, tốt nhất sử dụng hạt đậu tương đã ngâm rồi bón cho cây, mỗi gốc cần 0,5 kg hạt đậu tương. Đối với thuốc trừ sâu, dùng loại thuốc sinh học pha chế thêm tỏi, ớt, gừng để phun theo định kỳ. Khi cây bắt đầu cho quả nên treo bẫy để dụ ruồi vàng, côn trùng làm hại quả cam. Ông Trụ chia sẻ: “Bất cứ loại cây nào cũng vậy, khi đã trồng thì phải tâm huyết, tìm tòi và tiếp thu khoa học công nghệ để ứng dụng trồng trọt. Dù vườn cam của tôi mới trồng được 4 năm nhưng dự kiến cho thu hoạch 60 tấn quả, nếu giá bán ổn định sẽ được khoảng 350 triệu đồng”.

Tính đến hết năm 2020, diện tích cây ăn quả có múi trên địa bàn tỉnh là 9.017 ha, tập trung tại 3 huyện Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên. Trong đó, cây cam Sành chiếm 80% tổng diện tích; cây cam Vàng gồm các giống: Cam Vinh, Xã Đoài, Đường Canh, Cao Phong, V2… đạt hơn 1.600 ha. Những năm qua, tỉnh chủ yếu triển khai hỗ trợ chương trình sản xuất cam theo tiêu chuẩn VietGAP trên cây cam Sành và có 4.268,9 ha đã đạt tiêu chuẩn. Các sản phẩm tham gia chương trình VietGAP được giám sát, đánh giá đạt chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất được nguồn gốc, do vậy đã nâng cao sức cạnh tranh, thương hiệu cây cam. Niên vụ 2019 - 2020, giá trị sản xuất thu được từ cây cam đạt trên 990 tỷ đồng. Nhờ cây cam, nhiều hộ đã đổi đời vươn lên thành tỷ phú, xây dựng được nhà cửa khang trang, kiên cố, cuộc sống của người dân vùng trồng cam ngày càng đi lên.

Niên vụ 2020 - 2021, tổng sản lượng cam, quýt toàn tỉnh ước đạt trên 80 nghìn tấn. Với mong muốn vụ cam được mùa lẫn được giá, Sở Công thương tiếp tục hỗ trợ các hợp tác xã, các hộ dân ký kết hợp đồng đưa cam vào tiêu thụ tại các hệ thống phân phối như: Big C, Hapro, Saigon COOP, Vinmart, các chợ đầu mối, sàn thương mại điện tử. Đồng thời, chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn trực thuộc Bộ Công thương và Sở Công thương Thành phố Hà Nội xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động truyền thông, xúc tiến, tiêu thụ cam tại thị trường Hà Nội. Hiện, các đoàn của tỉnh cũng đã đi giới thiệu, kết nối, tiêu thụ sản phẩm cam tại các tỉnh: Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Nghệ An và tham gia hội chợ, hội nghị kết nối cung, cầu sản phẩm OCOP tại tỉnh Quảng Ninh. Cùng với đó, sở Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Nông dân tỉnh nỗ lực phối hợp để hỗ trợ tem truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm cam Vàng phục vụ hoạt động xúc tiến, quảng bá. Thông qua công tác xúc tiến, quảng bá, sản phẩm cam đã được đưa vào trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối các tỉnh, thành phố, mở rộng thị trường tiêu thụ cam cho người dân.

Bài, ảnh: MỘC LAN

Bấp bênh thị trường chanh tươi

Nguồn tin: Báo Tuyên Quang

Chanh tứ quý (chanh bốn mùa) được đưa vào trồng ở nhiều địa phương trong tỉnh, tuy nhiên đầu ra không ổn định, do đó phải có quy hoạch cụ thể để không phát triển “nóng” cây trồng này, tránh tình trạng cung vượt quá cầu.

Năm 2015 - 2016, giá quả chanh tươi lên cao kỷ lục, khoảng 20 - 25 nghìn đồng, có thời điểm 30 nghìn đồng/kg. Đó là chanh sử dụng làm gia vị, riêng đối với chanh đào được cho là có tác dụng làm gia vị và làm thuốc giá lên đến 50 nghìn đồng/kg. Giá chanh lên cao kéo theo cơn sốt trồng chanh khắp các địa phương trong tỉnh. Tại một số xã Yên Phú, Phù Lưu, Minh Dân (Hàm Yên); Thái Long, Đội Cấn, Nông Tiến, Phú Lâm (TP Tuyên Quang); Thắng Quân, Tứ Quận (Yên Sơn)... người dân không ngần ngại phá bỏ, xen cây chanh vào diện tích cây trồng khác, thậm chí ở một số hộ dân còn đưa cây chanh xuống đất lúa. Tuy nhiên, thời vàng son của cây chanh không được bao lâu, đến năm 2017, giá chanh bắt đầu tụt dốc. Ông Trần Việt Trung, tổ 8, phường Nông Tiến (TP Tuyên Quang) cho biết, năm 2014, ông đầu tư trồng 3 ha chanh, tuy nhiên đến khi chanh được thu hoạch giá không còn ở đỉnh cao 25 - 30 nghìn đồng/kg, mà đã giảm xuống 5 - 7 nghìn đồng/kg, tiền bán chanh không đủ để trả nhân công lao động.

Gia đình bà Lã Thị Chức, thôn Pắc Cáp, xã Phù Lưu (Hàm Yên) thu hoạch chanh.

Giá chanh quá thấp dẫn đến thu không bù chi, nhiều nhà vườn trồng chanh đã bỏ hoang, thậm chí là chặt chuyển đổi sang cây trồng khác. Nhưng chỉ sau một năm, đầu năm 2018, giá chanh lại leo lên đến đỉnh, với giá 25 - 30 nghìn đồng/kg, kéo theo cơn sốt trồng chanh. Tuy nhiên, cũng chỉ chưa đầy 1 năm sau, từ tháng 5 đến nay, giá quả chanh tươi lại giảm sốc, xuống còn 10 nghìn đồng/kg, có thời điểm xuống còn có 5 - 7 nghìn đồng/kg chanh loại A, loại B chỉ còn 2 - 3 nghìn đồng/kg.

Tại xã Phù Lưu (Hàm Yên), diện tích chanh trong 2 năm 2018 - 2019 đã tăng gần gấp đôi, với 300 ha, cao nhất từ trước đến nay, trong đó có 45 ha đất trồng lúa bà con đã chuyển đổi sang trồng chanh. Đồng chí Ma Văn Huy, Chủ tịch UBND xã thừa nhận, cây chanh đã mang lại thu nhập cho nhiều hộ dân trên địa bàn, thời điểm giá vào vụ, giá cao, có ngày người trồng chanh Phù Lưu bán ra thị trường 100 tấn quả tươi, thu về gần 3 tỷ đồng. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện nay, ông Huy lo ngại giá chanh sẽ xuống thấp nữa vì sản lượng nhiều lên, giá bán giảm là điều khó tránh khỏi.

Báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích cây chanh tăng nhanh từ năm 2018 - 2019. Toàn tỉnh có khoảng gần 1.000 ha chanh. Trong đó riêng huyện Hàm Yên lên đến 957,4 ha, chanh trồng trên đất lúa 249 ha; diện tích đang cho thu hoạch 554,2 ha, chiếm khoảng 57,8%; sản lượng chanh ước đạt khoảng 11.630 tấn/năm. Quả chanh tươi được thu gom chủ yếu qua thương lái để đi bán tại các chợ đầu mối của các tỉnh phía Bắc, sử dụng làm gia vị.

Đồng chí Trần Quốc Trung, Phó trưởng phòng Trồng trọt, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh cho rằng, cây chanh không phải là cây trồng chủ lực, hơn nữa là cây gia vị, do đó nhu cầu sử dụng không lớn. Nếu phát triển ồ ạt sẽ gây ra tình trạng mất cân đối cung cầu, ảnh hưởng đến giá trị sản phẩm và tổn thất trực tiếp đến người trồng chanh.

Đồng chí Đỗ Văn Hòa, Phó Chủ tịch UBND huyện Hàm Yên khẳng định, huyện đã yêu cầu cơ quan chuyên môn, UBND các xã Phù Lưu, Minh Dân, Tân Thành, Yên Thuận, Yên Phú tuyên truyền, khuyến cáo, kiểm soát nhân dân không phát triển ồ ạt diện tích chanh tứ quý; kiên quyết không để người dân đưa chanh xuống đất lúa. Những diện tích chanh hiện có, bà con tập trung vào chăm sóc, nâng cao chất lượng, thực hiện liên kết các hộ thành lập hợp tác xã chuyên sản xuất chanh; nghiên cứu, tìm kiếm thị trường, ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm tạo thành chuỗi phát triển bền vững. Song vấn đề cốt lõi nhất là bà con nông dân phải chủ động trong sản xuất, không nên chạy theo phong trào, phát triển ồ ạt, cung vượt quá cầu, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người nông dân.

Bài, ảnh: Đoàn Thư

Nông nghiệp hữu cơ: Hướng đi bền vững

Nguồn tin:  Báo Thừa Thiên Huế

Ngày 22/11, tại TP. Huế, Công ty CP Tập đoàn Quế Lâm phối hợp cùng Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ NN&PTNT) tổ chức diễn đàn xúc tiến phát triển nông nghiệp hữu cơ.

Các đại biểu tham gia diễn đàn

Đến dự có ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia cùng lãnh đạo các Cục trồng trọt; Cục Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ NN&PTNT) và đại diện sở, ngành địa phương liên quan.

Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) đang là mục tiêu hướng đến của nền nông nghiệp các nước nói chung và cũng là tương lai cần đạt được của nền nông nghiệp Việt Nam.

Hiện nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đều có sản xuất NNHC với nhiều doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp an toàn, nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái gắn với NNHC trên nhiều đối tượng cây trồng vật nuôi.

Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho rằng, hiện có trên 80% doanh nghiệp tham gia vào sản xuất NNHC. Tổ chức sản xuất hữu cơ theo chuỗi phục vụ thị trường trong và ngoài nước, sản phẩm từng bước khẳng định được thương hiệu. Cả nước có hơn 250 đơn vị sản xuất phân bón hữu cơ với 15 nhà máy công suất lớn có thể kể đến như Quế Lâm, Ajnomoto, Vedan, Thiên sinh…

Hiện nay, trong nước có 2 mô hình sản xuất NNHC là doanh nghiệp tư nhân và nhóm hộ nông dân. Doanh nghiệp tư nhân chủ yếu áp dụng các tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế (EU, Mỹ, Nhật…) để sản xuất các sản phẩm phục vụ xuất khẩu và một phần tiêu thụ ở các thành phố lớn. Các nhóm hộ nông dân chủ yếu sản xuất NNHC theo tiêu chuẩn PGS và tiêu thụ thị trường nội địa.

Tuy nhiên, ông Thanh cũng nhận định, sản xuất NNHC vẫn còn nhiều khó khăn do quy trình sản xuất khắt khe, chi phí sản xuất cao, năng suất thấp, thị trường cho sản phẩm NNHC chưa ổn định.

Thị trường nội địa cho sản phẩm NNHC hiện chưa phát triển trong khi thị trường xuất khẩu sản phẩm hữu cơ hầu như chưa kết nối. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách khuyến khích thúc đẩy sản xuất NNHC còn thiếu, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ…là một trong những “trở lực” ảnh hưởng đến phát triển sản xuất NNHC hiện nay.

Tổ hợp dự án chăn nuôi an toàn sinh học 4F tại xã Phong Thu (Phong Điền)

Do vậy, Trung tâm Khuyến nông quốc gia triển khai một số giải pháp trong thời gian tới như lựa chọn các sản phẩm có lợi thế so sánh, có thị trường tiêu thụ; xây dựng mô hình NNHC theo chuỗi liên kết giá trị khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ; xây dựng các mô hình phát triển nông nghiệp tuần hoàn, sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Ngoài ra, các đơn vị cũng tăng cường đào tạo và hợp tác quốc tế về NNHC; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh sản phẩm hữu cơ, phân bón hữu cơ, phân, chế phẩm sinh học…

Ông Nguyễn Hồng Lam, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Quế Lâm cho rằng, nông nghiệp luôn đóng vai trò bệ đỡ của nền kinh tế. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, tập đoàn lựa chọn và thực thi song hành, ủng hộ chủ trương của ngành nông nghiệp đưa ra đó là một nền NNHC, nông nghiệp chia sẻ, không ai bị bỏ lại phía sau và một nền nông nghiệp tuần hoàn, không bỏ đi thứ gì.

Năm 2020, Công ty CP Tập đoàn Quế Lâm đã khởi công xây dựng Tổ hợp dự án chăn nuôi an toàn sinh học 4F tại xã Phong Thu (Phong Điền), hướng đến chăn nuôi theo trang trại lớn và cả chăn nuôi công nghiệp trên địa bàn tỉnh, tạo ra chuỗi nông nghiệp tuần hoàn khép kín. Đây cũng là bước khởi đầu cho một nền NNHC trên địa bàn tỉnh, một mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp, không thứ gì phải bỏ đi.

Tại diễn đàn, các đại biểu cùng nhau trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm NNHC với mục đích nâng cao chất lượng và giá trị nông sản hữu cơ, tìm kiếm thị trường đầu ra.

Các đại biểu cũng nhất trí về tầm quan trọng của các tiêu chuẩn trong sản xuất NNHC, cũng như đưa ra nhiều hướng phát triển cho lĩnh vực sản xuất NNHC ở các địa phương là hướng đi tất yếu, bền vững.

Diễn đàn cũng là cơ sở để hiện thực hóa những định hướng phát triển, mở ra hướng đi mới cho ngành NNHC Việt Nam trong tương lai.

Tin, ảnh: Hà Nguyên

Doanh thu bình quân của mỗi trang trại tại Hà Nội đạt 2,2 tỷ đồng/năm

Nguồn tin:  Hà Nội Mới

Đến nay, Hà Nội có 1.720 trang trại (trong đó, 69 trang trại hoạt động trong lĩnh vực trồng trọt, 1.205 trang trại chăn nuôi, 1 trang trại lâm nghiệp, 120 trang trại nuôi trồng thủy sản và 325 trang trại tổng hợp), giảm 1.430 trang trại so với năm 2019.

Số lượng trang trại giảm là do thực hiện Thông tư số 02/2020/TT-BNNPTNT ngày 28-2-2020 của Bộ NN& PTNT về quy định tiêu chí kinh tế trang trại đã yêu cầu cao hơn so với trước đây. Mặc dù giảm nhưng chất lượng trang trại trên địa bàn thành phố thay đổi rõ nét. Tổng vốn đầu tư trung bình của 1 trang trại là 2 tỷ đồng, cá biệt có những trang trại đầu tư lớn (hơn 10 tỷ đồng). Diện tích trung bình 1,5ha/trang trại. Doanh thu bình quân đạt 2,2 tỷ đồng/trang trại/năm.

Theo đánh giá của Sở NN& PTNT Hà Nội, việc phát triển kinh tế trang trại đã khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; tạo việc làm, tăng thu nhập; khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; đóng góp tích cực vào chương trình xây dựng nông thôn mới…

QUỲNH DUNG

Dùng lưới rùng bắt ốc bươu vàng trên ruộng

Nguồn tin:  Báo Hậu Giang

Hiện nay, nước trên ruộng đang có dấu hiệu rút cũng là thời điểm người dân ở huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) dùng lưới rùng đánh bắt ốc bươu vàng.

Lưới rùng đánh bắt ốc có mắt lưới to hơn so với lưới rùng đánh bắt cá. Mỗi tay lưới có chiều dài từ 30-50m, mắt lưới từ 20-25mm. Vì vậy, phần lớn thủy sản đánh bắt được là cá lớn và ốc bươu vàng.

Mỗi lần bung lưới, người dân bắt được 20-30kg ốc bươu vàng.

Anh Nguyễn Thanh Huy cho biết, mấy năm gần đây thủy sản khan hiếm, nên việc anh sử dụng lưới rùng chủ yếu để bắt ốc bươu vàng trên ruộng. Mỗi ngày anh kiếm được từ 300-400kg ốc, thu nhập gần 1 triệu đồng. Việc dùng lưới rùng đánh bắt ốc đa phần được sự ủng hộ của các chủ đất, bởi ốc bươu vàng bắt được sẽ góp phần bảo vệ mùa màng cho vụ Đông xuân tới.

Tin, ảnh: DUY KHÁNH

Nhiều diện tích mía bị ngập nước lâu bắt đầu chết

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Niên vụ mía năm 2020, toàn huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xuống giống được 4.898ha, đạt 97,97% kế hoạch. Đến nay, đã thu hoạch được gần 3.000ha, chủ yếu bán mía chục. Qua ghi nhận trong tổng số 1.000ha mía bị ngập nước do triều cường vừa qua, đến nay chỉ mới thu hoạch được 200ha. 800ha còn lại, qua thống kê của ngành chuyên môn, có 442ha bị thiệt hại. Trong đó, diện tích bị thiệt hại dưới 30% là 219ha, thiệt hại từ 30-70% là 163ha, thiệt hại trên 70% là 60ha.

Tại buổi kiểm tra tình hình sản xuất mía, ông Hồ Văn Phú, Chủ tịch UBND huyện Phụng Hiệp, đã chỉ đạo ngành nông nghiệp huyện thống kê, khoanh vùng diện tích mía bị thiệt hại, tổ chức làm việc với nhà máy đường để đẩy nhanh tiến độ thu hoạch.

DUY KHÁNH

Nâng tầm đặc sản khoai lang Lệ Cần

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Giống khoai lang Lệ Cần (xã Tân Bình, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) ngon nức tiếng, từng được xếp vào danh sách các món đặc sản tiến Vua, hiện đang gặp khó khăn trên thị trường. Vì thế, các ngành và địa phương triển khai nhiều giải pháp nâng tầm sản phẩm đặc trưng giúp khoai lang Lệ Cần vươn ra biển lớn.

Mất mùa, rớt giá

Ông Nguyễn Trình (thôn 3, xã Tân Bình) được mệnh danh là “ông trùm” khoai lang Lệ Cần, mỗi năm ông trồng khoảng 30 ha. Tuy nhiên, năm nay, ông chỉ trồng 17 ha. Hiện gia đình ông đã thu hoạch khoảng 40% diện tích. Theo ông Trình, ước tính năng suất khoai vụ này chỉ đạt khoảng 6 tấn/ha, trong khi các năm trước đều đạt 8-10 tấn/ha.

Ông Trình cũng là Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp và Dịch vụ Tân Bình với 8 thành viên. Lĩnh vực hoạt động của HTX là sản xuất, cung ứng các sản phẩm liên quan đến khoai lang Lệ Cần. “Năm nay, HTX trồng khoảng 24,5 ha khoai lang Lệ Cần. Nhìn chung, năng suất các ruộng đều giảm khoảng 30-40%. Giá cũng giảm mạnh so với các năm trước”-ông Trình chia sẻ.

Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ Tân Bình thu hoạch khoai lang Lệ Cần. Ảnh: Lê Hòa

Theo ông Trình, năm ngoái, giá thương lái thu mua tại ruộng khoảng 10-12 ngàn đồng/kg. Năm nay, đầu mùa giá 9 ngàn đồng/kg, nhưng sau đó giảm dần. Hiện tại, giá khoai lang tại ruộng còn 5-7 ngàn đồng/kg. Chi phí đầu tư, chăm sóc khoảng 30-35 triệu đồng/ha, nông dân làm khoai năm nay hòa vốn hoặc lãi rất ít.

Trong khi đó, ông Trương Minh Thắng-Chủ tịch UBND xã Tân Bình-thông tin: Năm nay, người dân trên địa bàn xã trồng khoảng 30 ha khoai lang Lệ Cần. “Thời tiết không thuận lợi khiến năng suất khoai lang đạt thấp so với các năm. Trung bình 1 ha vụ này cho năng suất chỉ 6-7 tấn, các vụ trước đạt 10-12 tấn”-ông Thắng cho biết.

Đề cập các nguyên nhân giá khoai lang giảm sâu so với các năm, ông Trình cho rằng: Do tác động bởi dịch Covid-19, kinh tế eo hẹp, sức tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp bị ảnh hưởng. Bên cạnh khoai lang Lệ Cần, địa phương cũng trồng khoai lang Nhật Bản, nhưng thời tiết không thuận lợi khiến khoai lang Nhật Bản bị nhỏ củ, không đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu qua Trung Quốc. Vì thế, số khoai lang Nhật Bản này phải tìm cách tiêu thụ trong nước, nguồn cung vượt nên kéo giá khoai lang giảm mạnh, giá khoai lang Lệ Cần cũng giảm theo.

Tiếp sức cho sản phẩm đặc trưng

Thời gian qua, các sở, ngành và chính quyền địa phương đã quan tâm, hỗ trợ để phát triển khoai lang Lệ Cần. Trong đó, từ năm 2008-2012, Trung tâm Nghiên cứu Giống cây trồng tỉnh thực hiện phục tráng giống khoai lang Lệ Cần thuần chủng. Tiếp đó, nhiều chương trình, dự án của Sở Khoa học và Công nghệ, Hội Nông dân tỉnh cũng đã tiếp sức cho sản phẩm đặc trưng này. Trong đó, phải kể đến nỗ lực để khoai lang Lệ Cần được chứng nhận sản phẩm OCOP đạt 3 sao cấp tỉnh (năm 2019) và đạt chứng nhận VietGAP vào năm 2020.

Ông Nguyễn Kim Anh-Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đak Đoa-cho biết: “Thời gian tới, cùng với nỗ lực để nâng cấp sản phẩm khoai lang Lệ Cần đạt chứng nhận 4 sao OCOP cấp tỉnh, bên cạnh, địa phương sẽ phối hợp cùng Sở Khoa học và Công nghệ triển khai Đề án “Bảo hộ thương hiệu khoai lang Lệ Cần-Đak Đoa”, hướng đến hình thành chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm. Đây sẽ là bước quan trọng góp phần gia tăng tính bảo hộ cho đặc sản khoai lang Lệ Cần. Và là nền tảng quan trọng để đặc sản khoai lang Lệ Cần bước ra thị trường rộng lớn hơn”.

Đề cập khó khăn, áp lực đối với phát triển đặc sản khoai lang Lệ Cần, Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đak Đoa cho biết thêm: “Khó khăn nhất là quỹ đất canh tác. Bởi khoai lang đạt chất lượng tốt nhất khi canh tác ở xã Tân Bình hoặc một phạm vi nhỏ đồi đất đỏ thuộc các vùng lân cận. Đặc tính “khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen”, trong khi quỹ đất mới gần như không còn”.

Phòng Nông nghiệp và PTNT đã định hướng nông dân nên chia nhỏ diện tích, trồng rải vụ nhằm hạn chế việc thu hoạch cùng một thời điểm, giảm áp lực tiêu thụ. Đồng thời, tập trung phát triển các dòng sản phẩm chế biến sâu từ khoai lang…

Nhằm tìm hướng đi cho khoai lang Lệ Cần, HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Tân Bình đã chế biến khoai lang thành nhiều sản phẩm khác nhau. Hiện có khoảng 6 sản phẩm được chế biến từ khoai lang Lệ Cần, gồm: miến, bột khoai lang chín, tinh bột khoai lang, sữa khoai lang, bánh tráng khoai lang, rượu khoai lang.

Giám đốc HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Tân Bình cho rằng: Trong giai đoạn tới, HTX và nông dân rất cần sự hỗ trợ về công nghệ chế biến và kỹ năng tiếp thị sản phẩm.

“Hợp tác xã thường xuyên đưa sản phẩm đến trưng bày, giới thiệu tại các triển lãm, hội chợ và các sự kiện nhằm quảng bá sản phẩm. Đồng thời, tăng cường quảng bá trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Tuy nhiên, vẫn rất cần định hướng, chiến lược tiếp thị để xây dựng được hệ thống chuỗi phân phối sản phẩm rộng lớn, nhất là quảng bá trên các sàn thương mại điện tử, giúp nâng cao giá trị và thu nhập cho nông dân”-ông Trình bày tỏ.

LÊ HÒA

Cây nha đam giúp nông dân ở Bà Rịa- Vũng Tàu ‘đổi đời’

Nguồn tin: VOV

Thời gian qua, nhiều nông dân ở huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa– Vũng Tàu chuyển đổi cây trồng từ cây tiêu sang cây nha đam và khá lên nhờ sự chuyển đổi này.

So với trồng tiêu, trồng nha đam có vốn đầu tư ít hơn, không tốn công nhiều mà đầu ra lại khá ổn định, hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, cây nha đam đang là một hướng đi mới cho nông dân Châu Đức trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Trồng nha đam thu nhập cao

Ông Trần Lưu Thụy ở xã Bình Giã, huyện Châu Đức là người đầu mang giống cây nha đam Mỹ về trồng trên vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu. Trước đó, gia đình ông sống bằng vườn trồng tiêu và cà phê với thu nhập ổn định. Nhưng vài năm nay, hồ tiêu liên tục mất giá, còn cà phê thì già cỗi, năng suất kém và muốn trồng lại thì tốn rất nhiều tiền. Cách đây 3 năm, tìm hiểu trên internet, ông Thụy biết được cây nha đam dễ trồng, nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu lại rất lớn. Từ đó, ông tính toán rồi quyết định nên nhập từ Mỹ về 1.000 cây nha đam, trồng thử nghiệm trên diện tích 300m2.

Trồng nha đam đang cho nông dân Bà Rịa – Vũng Tàu thu nhập ổn định

Theo ông Thụy, lúc đầu thu hoạch, mỗi ngày ông cắt được khoảng 50kg nha đam và chủ yếu bán cho người dùng quanh vùng. Năm 2019, ông Thụy mở rộng diện tích trồng nha đam lên 5 sào và năng suất ổn định 3 tấn/sào thì cũng là lúc các doanh nghiệp chế biến nước giải khát vào thu mua lá với giá từ 2.700 – 4.000 đồng/kg. Bây giờ, chỉ riêng vườn nha đam, ông Thụy đã có thu nhập ổn định hơn 120 triệu đồng/năm.

"Lúc đó tôi nhập về trồng thử, chủ yếu cho cây sống trên đất rồi tính sau, giờ ổn rồi. Thời điểm từ tháng 11 đến tháng 5 là nhu cầu tiêu thụ hàng nhiều nên các công ty rất thiếu nguồn nguyên liệu lá nha đam nên đẩy giá lên rất cao, có khi mua từ 4.000 - 5.000 đồng/kg lá, mỗi tháng mình thu mỗi cây 1 kg lá" - ông Thụy chia sẻ.

Cũng như ông Thụy, ông Hoàng Cung, thôn Vĩnh Bình, xã Bình Giã, huyện Châu Đức chia sẻ, do tiêu mất giá liên tục nhiều năm liền nên 4 ha tiêu của gia đình ông bị thất thu. Ông Cung tìm hiểu qua nhiều loại cây trồng như chanh dây, gấc… nhưng thấy không khả thi. Cuối cùng, ông quyết định trồng nha đam.

Cán bộ Hội nông dân đang hướng dẫn người dân canh tác nha đam.

Tháng 5/2018, ông đầu tư 40 triệu đồng đầu tư hệ thống tưới, cây giống và bắt đầu trồng thử nghiệm 1 sào nha đam ngay trên vườn tiêu kém hiệu quả. Sau 10 tháng, nha đam cho thu hoạch lứa đầu tiên. Ông Cung tính toán, dù tỷ lệ cây bị thối ở vụ đầu là 30%, nhưng năng suất vẫn còn 3 tấn/sào, với giá hơn 4.700 đồng/kg lá, cộng với tiền bán cây giống, ông vẫn lời gần 40 triệu đồng. Vì vậy, năm ngoái, ông Cung đã đầu tư trồng thêm hơn 2 sào nha đam.

"Cây nha đam giá 2.000 đồng/kg là đã có lời rồi, một sào đất của tôi thu hoạch từ lá tầm 20 triệu đồng, còn bán cây giống từ 15 – 18 triệu đồng nên chỉ cần 1 năm sau là có thể thu hồi vốn. So với cây tiêu thì thu nhập vượt xa, cây tiêu thì 1 năm sau mới thu hoạch còn nha đam hàng tháng đã có thu nhập, chỉ cực chăm sóc lúc đầu", ông Cung phấn khởi nói.

Hướng đến canh tác tập trung

Nhận thấy hiệu quả kinh tế của cây nha đam, Hội Nông dân huyện Châu Đức đã khuyến khích hội viên mở rộng thêm diện tích trồng. Từ vài sào đất ban đầu của một vài hộ, đến nay cả huyện Châu Đức đã có 70 hộ nông dân trồng gần 10 ha nha đam, ở khắp các xã Bình Ba, Suối Nghệ, Kim Long, Sơn Bình, Suối Rao...

Trung bình mỗi cây nha đam thu hoạch được 1kg lá.

Ông Thân Xuân Động, Phó Chủ tịch Hội nông dân huyện Châu Đức cho biết, để hỗ trợ đầu ra ổn định cho nông dân trồng nha đam, Hội đang liên hệ với các doanh nghiệp thu mua, bàn bạc việc ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm.

Theo ông Động: "Sau khi cây tiêu chết nhiều người dân nghiên cứu trên mạng mua giống bên nước ngoài về trồng. Hiện chúng tôi đang liên hệ với các doanh nghiệp ở Bình Dương, Ninh Thuận và Tiền Giang để ký kết với nông dân về đầu ra. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng thành lập các tổ hợp tác, cho vay vốn quỹ hỗ trợ nông dân để phát triển cây nha đam khoảng 50 ha từ nay đến năm 2023".

Từ năm 2018, HĐND huyện Châu Đức cũng đã có nghị quyết về chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hộ trong nông nghiệp, thủy sản, trong đó có hỗ trợ người trồng nha đam. Đến nay, các mô hình được hỗ trợ có hiệu quả rõ rệt, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.

Cây nha đam rất dễ trồng và ít tốn công chăm sóc.

Ông Lê Thanh Liêm, Phó Chủ tịch UBND huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa– Vũng Tàu cho biết, về lâu dài, huyện đang hướng nông dân trồng nha đam theo khu vực, theo cụm để thuận tiện trong canh tác cũng như thu mua của các doanh nghiệp. Huyện Châu Đức cũng sẽ tư vấn vị trí cho các doanh nghiệp để xây dựng nhà máy chế biến nha đam và các nông sản khác ngay trên địa bàn.

"Hiện nay cây tiêu vẫn là cây chủ lực của địa phương, tuy nhiên giá tiêu xuống thấp bà con cầm cự nhiều năm qua nên xu hướng phải chuyển đổi cây trồng để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Hướng của huyện là sẽ chọn bà con trồng nha đam tham gia vào chuỗi liên kết, tập trung để thuận tiện chuyển giao kỹ thuật, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm và vận chuyển nông sản cũng dễ dàng" - ông Liêm cho hay.

Có thể thấy, cây nha đam đang cho thu nhập ổn định và là hướng chuyển đổi mới cho nông dân tỉnh Bà Rịa– Vũng Tàu. Tuy nhiên, chính quyền địa phương khuyến cáo người dân không phá bỏ vườn tiêu mà chỉ nên chuyển đổi ở những diện tích tiêu, cà phê năng suất kém. Song song đó, người dân cần trồng nha đam theo chuỗi liên kết và tập trung, gắn với thị trường tiêu thụ, để không luẩn quẩn trong vòng “trồng– chặt” theo thời giá./.

Lưu Sơn/VOV-TP HCM

Chủ động ứng dụng khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh

Nhằm nâng cao năng suất, đáp ứng nhu cầu của thị trường, góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp, thời gian qua, ngành NN&PTNT tỉnh Quảng Ninh đã triển khai nhiều ứng dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống vật nuôi mới vào sản xuất, lưu giữ các giống bản địa.

Mô hình chăn nuôi gà râu của gia đình anh Hoàng Văn Điện, thôn 4, xã Quảng Chính, huyện Hải Hà cho hiệu quả kinh tế cao.

Gà râu Hải Hà có nguồn gốc từ đảo Cái Chiên, được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng cách để giống theo phương thức truyền thống. Điểm khác biệt so với các giống gà khác bắt nguồn từ đặc điểm ngoại hình của nó. Khi lớn, phía bên dưới mỏ mọc ra một cụm lông dài rủ xuống, trông như một chùm râu. Nhỏ con, chân thấp, da vàng, xương nhỏ, thịt thơm ngon, gà râu là một đặc sản của địa phương, rất được ưa chuộng, giá dao động từ 150.000-170.000 đồng/kg.

Nhận thấy tiềm năng của giống gà râu, từ năm 2013 gia đình anh Hoàng Văn Điện (thôn 4, xã Quảng Chính, huyện Hải Hà) đã ra đảo Cái Chiên mua một số con gà bản địa về chăm sóc, nuôi dưỡng, nhân giống.

Được sự hướng dẫn của địa phương, anh đã chủ động đăng ký tham gia chương trình OCOP của tỉnh với sản phẩm "Gà râu Hiền Điện". Để nâng cao giá trị sản phẩm, anh tìm hiểu, học thêm các kỹ thuật phối giống, đầu tư máy móc, thiết bị ấp trứng nhân tạo để tạo ra giống gà thuần chủng. Không chỉ mở rộng đàn gà lớn nhất huyện lên tới hàng nghìn con, gia đình anh còn cung cấp giống cho các hộ khu vực xung quanh.

Anh Điện cho biết: Gà râu Hải Hà là giống gà bản địa có sức đề kháng tốt, thịt thơm ngon, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng, thị trường ổn định, giá bán cao. Ước tính, mỗi năm gia đình anh xuất bán từ 3.000-5.000 con gà râu, thu lãi hàng trăm triệu đồng.

Thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, nhất là trong tình hình dịch tả lợn châu Phi còn diễn biến phức tạp, việc phát triển vật nuôi đặc sản địa phương có ý nghĩa quan trọng. Năm 2020, Trung tâm Khuyến nông (Sở NN&PTNT) đã hỗ trợ 2.400 con gà giống cho 8 hộ nuôi ở xã đảo Cái Chiên; đồng thời hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, nuôi vỗ béo và sinh sản. Huyện đang đề nghị các đơn vị liên quan nghiên cứu phục hồi, lưu giữ nguồn gen gốc, nhân giống và phát triển gà râu Hải Hà.

Mô hình chăn nuôi đà điểu của hộ ông Nguyễn Minh Ngọc (khu 4, phường Xuân Sơn, TX Đông Triều) sẽ được nhân rộng trong thời gian tới.

Sau nhiều năm kiên trì nuôi thử quy mô đàn nhỏ, nhận thấy kỹ thuật nuôi đà điểu không khó, phù hợp với điều kiện đất đai của gia đình, trong khi nhu cầu tiêu thụ thịt thương phẩm đà điểu lớn, tháng 5/2019, hộ anh Nguyễn Minh Ngọc (khu 4, phường Xuân Sơn, TX Đông Triều) đã đầu tư mua 100 con đà điểu, trị giá gần 300 triệu đồng, về nhân rộng đàn nuôi; đồng thời chủ động nuôi sinh sản lấy trứng. Dự kiến đến đầu năm 2021, đà điểu sẽ đẻ những mẻ trứng đầu tiên, ấp nở thành con giống, hứa hẹn mở ra hướng đi mới giúp địa phương chủ động nguồn giống đà điểu để nhân rộng. Đây là mô hình nuôi đà điểu sinh sản quy mô lớn nhất và đầu tiên của tỉnh đến thời điểm này.

Anh Ngọc cho biết: Nuôi đà điểu nhàn hơn bởi sức đề kháng tốt, dễ thích nghi, thức ăn cho đà điểu tương đối đơn giản. Sau hơn 7 tháng nuôi, trọng lượng đà điểu đạt từ 70-80kg/con, tăng 60-70kg/con so với lúc đầu nuôi. Nếu nuôi thương phẩm, xuất chuồng khoảng 10-12 tháng, nuôi sinh sản lấy trứng khoảng 24-30 tháng, thu lãi khoảng 5 triệu đồng/con (100.000-110.000 đồng/kg hơi).

Hiệu quả từ nuôi đà điểu, TX Đông Triều đã quyết định lựa chọn mô hình này để hỗ trợ phát triển sản xuất, nhằm chủ động tạo nguồn con giống đà điểu cung cấp nhu cầu nuôi cho các hộ trên địa bàn. Bên cạnh được hỗ trợ 70% kinh phí mua con giống, 50% kinh phí mua thức ăn, thị xã còn hướng dẫn kỹ thuật nuôi, chăm sóc giống đà điểu. Từ mô hình của anh Ngọc, thời gian tới Đông Triều sẽ nhân rộng việc nuôi đà điểu trên địa bàn thị xã.

Cùng với đó, thời gian qua ngành NN&PTNT tỉnh triển khai nhiều ứng dụng khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực chăn nuôi, như: Sử dụng đệm lót sinh học, thụ tinh nhân tạo cho gà Tiên Yên; phục tráng giống lợn Móng Cái... Qua đó, góp phần tăng giá trị sản phẩm, nâng cao thu nhập cho người dân.

Cao Quỳnh

Cả nước có 96% số xã không có bệnh Dịch tả lợn châu Phi

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Theo Cục Thú y (Bộ NN&PTNT), từ đầu năm đến nay, cả nước xuất hiện 1.409 ổ bệnh Dịch tả lợn châu Phi (496 ổ dịch xảy ra từ cuối năm 2019 và kéo dài sang năm 2020; 27 ổ dịch phát sinh mới và 886 ổ dịch tái phát) tại 307 huyện thuộc 50 tỉnh, thành phố; tổng số lợn tiêu hủy là 76.905 con (khoảng 3.845 tấn). Cả nước hiện còn 357 xã thuộc 117 huyện của 30 tỉnh, thành phố có dịch chưa qua 21 ngày.

Theo Cục Thú y, bệnh Dịch tả lợn châu Phi cơ bản đã được kiểm soát. Thời gian qua, dịch bệnh chỉ xảy ra tại các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, không bảo đảm các điều kiện chăn nuôi an toàn sinh học. Đến nay, cả nước có 96% số xã không có bệnh Dịch tả lợn châu Phi, bảo đảm các điều kiện cho việc tổ chức tái đàn, tăng đàn lợn. Tính đến tháng 10-2020, tổng số tiền đã chi từ ngân sách nhà nước để thực hiện chính sách phòng, chống bệnh Dịch tả lợn châu Phi đạt hơn 13.000 tỷ đồng.

Thực hiện Kế hoạch quốc gia phòng, chống bệnh Dịch tả lợn châu Phi giai đoạn 2020-2025, các địa phương sẽ chủ động giám sát, phát hiện sớm, cảnh báo, thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống bệnh Dịch tả lợn châu Phi; tổ chức chăn nuôi an toàn sinh học nhằm giảm thiểu tổn thất về kinh tế, hạn chế tác động xấu của giá thịt lợn đến chỉ số giá tiêu dùng, môi trường...

NGỌC QUỲNH

Quảng Trị: Đông Hà khẩn trương khống chế dịch bệnh lở mồm long móng

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Thời điểm này tại thành phố Đông Hà (tỉnh Quảng Trị) đã xuất hiện dịch bệnh lở mồm long móng (LMLM) trên đàn bò. Đây là dịch bệnh nguy hiểm, dễ lây lan nếu không có các biện pháp phòng trừ, điều trị hiệu quả. Trước tình hình đó, thành phố Đông Hà đã chỉ đạo các ngành liên quan, UBND các phường khẩn trương triển khai công tác phòng trừ và khống chế dịch bệnh LMLM, không để dịch lây lan trên diện rộng.

Một hộ chăn nuôi bò ở phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà tiêu độc khử trùng chuồng trại để phòng trừ dịch bệnh LMLM -Ảnh: H.G

Với kinh nghiệm chăn nuôi bò gần 20 năm nhưng gia đình ông Hồ Sỹ Luyện ở Khu phố 1, phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà vẫn rất vất vả trong khâu điều trị cho đàn bò đã bị dịch bệnh LMLM gần một tuần nay. Mặc dù gia đình đã rất cẩn thận trong việc vệ sinh chuồng trại, tiêu độc khử trùng nhưng do mưa lũ liên tục và dài ngày đã làm cho đàn bò 6 con của gia đình phát sinh dịch bệnh LMLM. Ông Luyện cho hay: “Ngay sau khi phát hiện đàn bò của gia đình mắc bệnh LMLM, tôi đã báo với cán bộ thú y phường về khảo sát, sau đó đã được cán bộ thú y phường cho thuốc khử trùng và hướng dẫn chúng tôi cách phòng trừ dịch bệnh”. Hiện gia đình ông Luyện đang được cán bộ thú y tích cực hỗ trợ, hướng dẫn điều trị bệnh cho đàn bò, cùng với đó gia đình ông cũng thường xuyên thực hiện việc khử trùng chuồng trại để đảm bảo phòng trừ dịch bệnh hiệu quả hơn.

Chỉ trong vòng hơn 1 tuần trở lại đây trên địa bàn phường Đông Thanh và khu phố Tây Trì, Phường 1 thành phố Đông Hà đã có 22 con bò của 5 hộ chăn nuôi xuất hiện dịch bệnh LMLM. Nguyên nhân dịch bệnh lây lan chủ yếu là do phát bệnh tại chỗ ở các ổ dịch cũ của năm trước; một số hộ có bò phát bệnh, lây lan ở những cá thể chưa được tiêm phòng vắc xin LMLM vụ thu năm 2020. Diễn biến dịch LMLM bùng phát rất nhanh và có dấu hiệu nặng hơn. Tuy nhiên, một số hộ chăn nuôi ý thức chưa cao vẫn chủ quan thả rông bò ra đồng khi đang dịch bệnh, tiềm ẩn nguy cơ lây lan lớn cho đàn trâu bò nuôi. Trước thực trạng này, ông Nguyễn Đức Vầy, Phó Chủ tịch UBND phường Đông Thanh cho biết: “Thực tế là đợt mưa lũ xảy ra vừa qua khiến nhiều chuồng trại chăn nuôi của người dân không đảm bảo, do đó một số hộ chăn nuôi đã thả bò ra ngoài, gây nguy cơ mắc và lây lan dịch bệnh LMLM. Để phòng chống dịch bệnh, chúng tôi đã chỉ đạo lực lượng công an, thú y, ban cán sự các khu phố yêu cầu, vận động người chăn nuôi nhốt bò trong chuồng và thực hiện nghiêm các biện pháp phòng bệnh. Nếu các hộ chăn nuôi vẫn tiếp tục thả rông bò, chúng tôi sẽ căn cứ vào Pháp lệnh thú y để có biện pháp xử lý quyết liệt hơn nữa”.

Bên cạnh đó, để phòng chống dịch bệnh, hạn chế dịch lây lan trên diện rộng, UBND thành phố Đông Hà đã yêu cầu các đơn vị liên quan, UBND các phường và các hộ chăn nuôi triển khai ngay công tác tiêm phòng vắc xin LMLM và các loại vắc xin khác cho đàn gia súc; tổng vệ sinh tiêu độc khử trùng phòng, chống dịch bệnh vật nuôi sau mưa lũ; tiến hành rà soát, giám sát dịch bệnh đàn vật nuôi để khống chế dịch bệnh. Đồng thời các phường triển khai việc ký cam kết đối với các hộ có bò đang dịch bệnh không được bán, giết mổ mà chỉ nuôi nhốt tại chuồng. Ông Lê Văn Chánh, Phó Trưởng Trạm Chăn nuôi và Thú y thành phố Đông Hà khuyến cáo thêm: “Sau các đợt mưa lũ thường có nguy cơ cao xảy ra các loại dịch bệnh, đặc biệt là dịch bệnh LMLM. Vì vậy, cơ quan chuyên môn chúng tôi khuyến cáo người chăn nuôi cần thực hiện việc tiêm phòng dịch bệnh cho đàn gia súc. Song song với đó là thường xuyên thực hiện tiêu độc khử trùng chuồng trại và môi trường để hạn chế tối đa dịch bệnh phát sinh và lây lan”.

Hiếu Giang

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop