Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 10 tháng 4 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 10 tháng 4 năm 2024

 

Nông dân nỗ lực bơm chuyền nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp

 

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Tình hình hạn, mặn trên địa bàn tỉnh Tiền Giang hiện diễn ra gay gắt, mặn xâm nhập sâu, hệ thống cống ngăn mặn phải vận hành đóng dẫn đến tình trạng thiếu nước ngọt sản xuất. Trước tình hình trên, để bảo vệ sản xuất, nhiều nông dân đang chủ động bơm chuyền nước ngọt để tưới cho cây trồng.

 

 

Vườn sa pô của anh Trần Hữu Tín đang dần cạn nước tưới.

Những ngày qua, do mặn xâm nhập sâu nên hệ thống cống dọc sông Tiền từ huyện Gò Công Đông đến huyện Cai Lậy phải đóng ngăn mặn. Nước ngọt khan hiếm nên ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp của người dân. Qua ghi nhận, hiện một số khu vực cục bộ ở các xã phía Tây của huyện Châu Thành như: Bàn Long, Phú Phong... đang bị thiếu nước sản xuất.

Theo ghi nhận, hiện nhiều nhà vườn ở xa tuyến kinh lớn tại xã Phú Phong đang gặp khó khăn về nước tưới. Trước tình hình khó khăn về nước sản xuất, một số nông dân đã chủ động bơm chuyền nước từ các sông lớn vào các kinh, rạch nhỏ để cung cấp nước cho mương vườn. Hơn 1 tuần qua, vườn sầu riêng 10 năm tuổi của ông Đào Văn Chính (ấp Long Thành A, xã Bàn Long, huyện Châu Thành) đang thiếu nước tưới. Theo ông Chính, do cống Phú Phong và Rạch Gầm đóng ngăn mặn nên áp lực nước vào kinh, rạch nội đồng ít. Mực nước ở các rạch dẫn nước từ các kinh lớn vào nội đồng thấp nên không thể vào mương vườn. Ông Chính cho biết thêm: "Để có nước tưới cho vườn sầu riêng, tôi đã chủ động đặt máy bơm nước ở ấp Phú Ninh, xã Phú Phong bơm chuyền nước vào mương vườn qua đường ống dài 800m. Những ngày gần đây, dù hệ thống cống ngăn mặn có vận hành lấy gạn, nhưng lượng nước vẫn còn ít".

Theo ông Nguyễn Văn Tuấn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) xã Bàn Long, toàn xã có hơn 817 ha cây ăn trái với 2 loại cây chủ lực là sầu riêng và sa pô; trong đó cây sầu riêng chiếm hơn 400ha. Tình hình nước tưới tiêu của người dân những ngày gần đây ổn định. Việc thiếu nước tưới chỉ xảy ra cục bộ ở các vườn ở sâu trong nội đồng. Thời gian qua, UBND xã đã liên tục tổ chức đo mặn ở các cửa kinh, rạch dẫn nước vào xã để thông báo cho người dân chủ động trong sản xuất. Ngoài ra, UBND xã cũng đã tổ chức 7 điểm bơm chuyền nước để đảm bảo nhu cầu nước tưới tiêu của người dân.

Cũng tại huyện Châu Thành, xã Long Hưng hiện có diện tích sản xuất nông nghiệp hơn 960ha, chủ yếu là cây ăn trái. Hiện nông dân trên địa bàn xã cũng đang gặp khó khăn do mực nước ở các kinh, rạch nội đồng giảm mạnh. Ông Lê Văn Tôn, Phó Chủ tịch UBND xã Long Hưng cho biết, UBND xã đã chỉ đạo cho Ban Quản lý các ấp rà soát các vị trí bơm chuyền nước để đảm bảo nước tưới cho người dân trong mùa hạn, mặn. Hiện UBND xã đang triển khai 20 điểm bơm chuyền tại 9 ấp của xã để kịp thời cấp nước cho người dân.

Còn tại TP. Mỹ Tho, những ngày qua, các cống trên địa bàn thành phố đều đóng để ngăn mặn dẫn đến mực nước ở các tuyến kinh nội đồng xuống thấp. Điều này ảnh hưởng đến nguồn nước sản xuất nông nghiệp của người dân. Theo Phòng Kinh tế TP. Mỹ Tho, thời gian qua, đơn vị đã liên tục phát thông báo tình hình xâm nhập mặn trên địa bàn. Đồng thời, đề nghị các phường, xã tuyên truyền, vận động Nhân dân bơm trữ nước và có biện pháp ứng phó với hạn, xâm nhập mặn kéo dài.

Để đảm bảo nguồn nước ngọt phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp trước tình trạng hạn, mặn gay gắt, TP. Mỹ Tho đã tổ chức đắp đập bơm chuyền nước ngọt vào các tuyến kinh nội đồng. Cụ thể, tại xã Tân Mỹ Chánh dự kiến bơm 8 điểm và hiện đang bơm 6 điểm; xã Mỹ Phong dự kiến bơm 13 điểm, đang bơm 5 điểm; xã Đạo Thạnh dự kiến bơm 15 điểm, đang bơm 4 điểm; xã Trung An dự kiến bơm 1 điểm; xã Phước Thạnh dự kiến bơm 9 điểm, đang bơm 2 điểm. Cũng theo Phòng Kinh tế TP. Mỹ Tho, trong thời gian tới, đơn vị sẽ theo dõi nguồn nước bên trong nội đồng và tổ chức bơm nước ở các tuyến kênh bị thiếu nước. Đồng thời, tiếp tục hoàn chỉnh hồ sơ thực hiện các bước thủ tục theo quy định và triển khai thi công nạo vét kinh, rạch bị bồi lắng.

Còn tại huyện Chợ Gạo, hiện nhiều nhà vườn cũng đang trong tình cảnh thiếu nước sản xuất. Địa phương đã vận động người dân chủ động tổ chức các điểm bơm chuyền nước ngọt.

Theo ông Cao Tấn Hưởng, Phó Chủ tịch UBND huyện Chợ Gạo, hiện các tuyến kinh, rạch nội đồng tại các xã phía Đông kinh Chợ Gạo đã khô, cạn. Những ngày trước, địa phương phát động Nhân dân tổ chức bơm chuyền nước để tưới dừa Mã Lai và một số ít thanh long. Người dân đã hưởng ứng và triển khai được nhiều điểm bơm, tuy nhiên, đến nay, nguồn nước đã cạn kiệt. Hiện chỉ còn ở sông Cầu Sắt, Cầu Ngang là còn nước, người dân đang tiếp tục bơm chuyền. Riêng các xã vùng trên, nguồn nước tại các kinh, rạch lớn vẫn còn để bơm chuyền. Hiện một số xã như Lương Hòa Lạc, Thanh Bình... người dân đã bắt đầu tổ chức bơm chuyền nước ngọt để phục vụ sản xuất.

T. Đạt - C. Thắng

 

Hải Dương: Trà vải sớm dự kiến cho thu hoạch vào cuối tháng 5

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Hải Dương

Thời điểm này các trà vải đang ở thời kỳ nở hoa, đậu quả đến quả non. Dự kiến cuối tháng 5 vải U trứng trắng, trứng gai bắt đầu thu hoạch. Đầu tháng 6 các giống vải U hồng, U thâm được thu hoạch, đến giữa tháng 6 thu hoạch vải tàu lai và vải thiều chính vụ.

Để thuận lợi cho việc tiêu thụ và xuất khẩu vải quả năm 2024, UBND huyện đã yêu cầu, các địa phương rà soát, quy hoạch các vùng sản xuất thực hiện Đề án của tỉnh theo kế hoạch phân bổ trong năm nay. Các hộ trồng vải thực hiện nghiêm các quy định trong chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, đặc biệt sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không vi phạm các hoạt chất cấm để phòng trừ sâu bệnh hại cho cây vải.

 

 

Kiểm tra, giám sát vùng trồng vải được cấp mã số tại xã Vĩnh Lập

Các cơ quan chuyên môn tích cực tổ chức tập huấn hướng dẫn quy trình sản xuất vải an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, tiêu chuẩn quốc tế cho các hộ trồng vải. Đồng thời phân công cán bộ chuyên môn tăng cường phối hợp với các xã có vùng sản xuất, thường xuyên kiểm tra vùng trồng để khuyến cáo, hướng dẫn người dân chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại, ghi chép nhật ký vườn cây, bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật đảm bảo theo quy định. Hướng dẫn các tổ sản xuất, các địa phương phối hợp với đơn vị tư vấn, giám sát, hoàn thiện thủ tục, hồ sơ để đánh giá, chứng nhận đạt chuẩn VietGAP, GlobalGAP tạo thuận lợi cho khâu quảng bá, tiêu thụ vải.

Nguồn: Cổng Thông tin điện tử huyện Thanh Hà

 

Mùa dưa ‘đắng’

 

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Giá bán trái dưa hấu trong vụ mùa năm nay xuống thấp, thấp hơn nhiều so với những năm gần đây. Nhiều người dân trồng dưa điêu đứng vì thua lỗ.

 

 

Nhân công vác dưa hấu cho một thương lái tại Nông trường cao su Đồng Rùm.

Ông Đặng Văn Vũ, một người dân trồng hơn 10 ha dưa hấu tại Nông trường cao su Đồng Rùm (xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh) cho biết, giá bán trái dưa hấu năm nay xuống rất thấp. Thương lái thu mua dưa tại đám, thuê nhân công phân dưa hấu ra thành nhiều loại và theo đó định giá cho từng loại. Tại thời điểm ngày 3.4.2024, dưa loại một có giá khoảng 4.000 đồng/kg, loại hai khoảng 3.000 đồng/kg, loại ba khoảng 2.000 đồng/kg, loại dưa nụ có giá khoảng 1.000 đồng/kg.

Theo ông Vũ nhận định, giá thu mua dưa như vậy là cực kỳ thấp so với những năm gần đây. Cụ thể, vào thời điểm này năm 2023, trái dưa hấu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh có giá bán từ 8.000 đồng đến 9.000 đồng/kg, trung bình 1 ha dưa hấu có thể bán được từ 80 đến 100 triệu đồng (nhiều trường hợp bán “mão” diện tích trồng dưa cũng với giá này). Riêng năm nay, trung bình 1 ha dưa hấu chỉ bán được khoảng 20 triệu đồng. Trong khi, tiền vốn để đầu tư trồng 1 ha dưa hấu đến ngày thu hoạch hơn 60 triệu đồng. Với tình hình như vậy, người trồng dưa sẽ thua lỗ khoảng 40 triệu đồng/ha.

Ông Nguyễn Văn Được, một người dân trồng 18 ha dưa hấu tại Nông trường cao su Đồng Rùm cho hay, năm nay dưa hấu mất mùa nên hầu hết thương lái đều mua dưa theo hình thức phân loại, áp giá, cân ký; không mua “mão” cả diện tích trồng dưa như những năm trước đây. Do đó, tổng số tiền bán dưa trên 1 ha giảm đáng kể. Nguyên nhân dưa mất mùa là do nắng nóng kéo dài, nhiều loại sâu, rầy xâm hại cây trồng, năng suất dưa hấu giảm.

Một thương lái thu mua dưa tại Nông trường cao su Đồng Rùm cho biết, năm nay dưa rớt giá vì diện tích trồng dưa tăng nhiều, nhất là tại các khu vực như Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Tây Nam bộ, đặc biệt là nguồn dưa từ Campuchia khá dồi dào. Thực tế này dẫn đến tình trạng cung vượt cầu, đây là tình hình chung. Mặt khác, dưa hấu của người dân trồng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm nay cho năng suất không cao, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của bà con.

Qua ghi nhận vào ngày 3.4, hơn 100 ha dưa hấu tại Nông trường cao su Đồng Rùm đang được thu hoạch gần xong. Gần đó, vẫn còn khoảng 115 ha dưa hấu sắp đến ngày thu hoạch (khoảng 10 ngày nữa thu hoạch), nhiều nông dân trồng dưa đến từ tỉnh Bình Phước đang “đứng ngồi không yên” vì lo lỗ nặng, từng ngày trông chờ giá bán dưa tăng theo chiều hướng trên 5.000 đồng/kg mới có hy vọng không lỗ vốn.

“Dưa hấu đến ngày trái chín thì phải thu hoạch kịp thời, không thể để lâu hơn nhằm chờ bán được giá. Vì thương lái luôn thuê người dùng tay vỗ vào trái dưa để đánh giá mức độ chín, nếu trái dưa nào chín quá sẽ bị dạt ra bỏ không mua. Khi đó, số lượng dưa bị thất thoát là rất lớn, người trồng dưa càng thiệt thòi hơn”- ông Nguyễn Văn Được cho hay.

Minh Quốc

 

Nguy cơ mất mùa nhãn hiện hữu

 

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

Thời điểm này, thay vì ra hoa, đậu quả như những năm trước thì nhiều vườn nhãn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên lại đang nảy lộc, lá. Tình trạng đó khiến người trồng nhãn đứng trước nguy cơ “trắng tay” ngay từ đầu vụ.

 

 

Nhiều cây nhãn của gia đình ông Hoàng Trọng Thủy (ở xóm Na Long, xã Hóa Trung, Đồng Hỷ) gần như không có hoa.

Chưa khi nào vườn nhãn của gia đình ông Hoàng Trọng Thủy (ở xóm Na Long, xã Hóa Trung, Đồng Hỷ) lại có tỷ lệ cây ra hoa thấp như năm nay. Ông Thủy cho biết: Trong vườn nhà tôi hiện có 100 gốc nhãn, tuổi đời từ 10-28 năm. Vụ năm ngoái tôi thu được 9 tấn quả, trừ chi phí lãi gần 60 triệu đồng. Thế nhưng, năm nay chỉ có khoảng 20% số cây có hoa và tỷ lệ hoa trên mỗi cây cũng chỉ bằng 30% so với thông thường. Từ nay đến khi thu hoạch thời tiết thuận lợi thì còn kéo lại được ít vốn, nếu không coi như mất trắng.

Tương tự, gia đình bà Hoàng Thị Nga (ở xóm Khuân Vạc, xã La Hiên, Võ Nhai) hiện có 60 gốc nhãn đã cho thu hoạch hơn 17 năm. Vụ nhãn năm ngoái gia đình thu trên 3 tấn quả và giá bán trung bình 7.000 đồng/kg.

Bà Nga chia sẻ: Mặc dù biết là cứ năm trước nhãn được mùa thì năm sau sẽ kém đi khoảng 10-20% nhưng chưa khi nào nào số cây ra hoa lại ít như năm nay. Trong vườn gia đình chỉ có khoảng một nửa số cây ra hoa, một số cây có hoa nhưng chỉ lác đác có vài bông. Điều đáng nói là sau vụ nhãn trước tôi vẫn áp dụng đầy đủ quy trình cắt tỉa cảnh, phòng trừ sâu, bệnh và bón các loại phân gà, phân lân như thông lệ.

Việc nhãn ra nhiều lộc lá, ít hoa sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới thu nhập của nhiều hộ gia đình, nhất là tại những vùng có diện tích trồng nhãn lớn. Đơn cử như ở tổ dân phố Việt Cường, thị trấn Hóa Thượng (Đồng Hỷ) - một trong những vùng trồng nhãn nổi tiếng của tỉnh. Việt Cường có 200 hộ dân thì gần như nhà nào cũng trồng nhãn, ít thì 1-2 cây còn nhà nhiều tới 500-600 cây; tổng diện tích trồng nhãn khoảng 46ha, chủ yếu là giống nhãn ghép.

Dẫn chúng tôi đi thăm các vườn nhãn trên địa bàn, ông Phạm Quang Tiến, Tổ trưởng tổ dân phố Việt Cường, cho biết: Thông thường với 1ha nhãn, trừ hết chi phi thì người dân có lãi khoảng 50 triệu đồng. Thế nhưng vụ nhãn năm nay bà con lại đứng trước nguy cơ thất thu khi nhãn không ra hoa hoặc có hoa nhưng tỷ lệ chỉ bằng 20-30% so với mọi năm. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế, bởi thu nhập của nhiều hộ phụ thuộc chính vào cây nhãn.

Nhận định về nguyên nhân của tình trạng nhãn ra ít hoa, nhiều lộc lá, ông Tiến và những người trồng nhãn lâu năm trên địa bàn cho rằng có thể do thời tiết. Bởi năm nay thời điểm nhãn ra hoa (từ tháng Chạp đến tháng Giêng) gặp mưa nhiều, lạnh ít, độ ẩm không khí cao nên dẫn đến nhãn bật lộc lá chứ không nhú lộc hoa.

Đến hết năm 2023, trên địa bàn tỉnh có 1.690ha nhãn, tập trung chủ yếu ở các huyện, thành phố như: Đồng Hỷ, Phổ Yên, Đại Từ, Võ Nhai. Là một trong trong những cây trồng chủ lực của tỉnh, nên để không làm ảnh đến diện tích trồng nhãn, các địa phương đã và đang tăng cường tuyên truyền, vận động những hộ trồng nhãn quan tâm chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho những cây đã ra hoa; không vội chặt bỏ để chuyển đổi sang trồng cây khác, nhằm tránh tình trạng “được mùa, mất giá”...

Vũ Công

 

Thu nhập cao nhờ trồng dừa xiêm xanh

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

 

 

Anh Tâm có thu nhập cao từ dừa xiêm xanh.

Có tư duy nhạy bén và nắm bắt nhu cầu thị trường, anh Nguyễn Thanh Tâm (ấp Phước Bình, xã Lộc Hòa, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long) đã mạnh dạn đầu tư trồng dừa xiêm xanh cho hiệu quả kinh tế cao và mang tính bền vững.

Từ mong muốn tìm mô hình để phát triển kinh tế gia đình và cũng do cơ duyên trong một chuyến công tác được thưởng thức một loại nước dừa với vị ngọt thanh, thơm nhẹ, vỏ mỏng với màu xanh đẹp mắt, anh Tâm đã chủ động tìm hiểu về đặc tính, kỹ thuật trồng loại dừa xiêm xanh này và đem về trồng tại địa phương.

Theo anh Tâm, trồng loại dừa này tuy dễ mà khó. Theo đó, sau 15 tháng dừa đã ra quầy, 1 tháng ra 2 buồng: buồng chị, buồng em, với số lượng từ 15-35 trái/buồng, sau 17 ngày thì có thể thu hoạch đợt tiếp theo, loại dừa này cũng cho trái quanh năm và mỗi năm dừa có thể cho 18-20 buồng. Tuy nhiên, phải chăm sóc dừa đúng kỹ thuật, đảm bảo đủ nước tưới vào mùa nắng nóng nếu không cây sẽ bị suy không ra buồng và khó nhất là khâu phòng trừ đuông dừa phá hoại. Do đó, phải thăm vườn thường xuyên để kịp thời phát hiện dịch bệnh, có cách xử lý kịp thời.

Thời gian đầu, anh chỉ trồng vài chục gốc dừa trên đất nhà, sau khi cho trái anh giới thiệu cho nhiều người biết, thưởng thức và tìm mua. Anh Tâm đã mở rộng diện tích lên 10ha, đồng thời, đưa giống cho người dân địa phương trồng, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng cây và sau đó thu hoạch lại trái dừa để xuất bán và lấy tên sản phẩm “Dừa xanh lục Thiên Thanh”. Đến nay, sản phẩm đã được nhiều người biết đến, sản lượng tiêu thụ ngày càng tăng, thị trường tiêu thụ rộng từ các tỉnh miền Nam đến một số tỉnh phía Bắc.

“Ưu điểm của giống dừa xiêm xanh này là có 2 mo nang. Vỏ dừa rất mỏng, trái không to, nhưng lượng nước bên trong vẫn nhiều và có vị ngọt, thơm. Dừa cho trái sớm, sai, mang lại hiệu quả kinh tế cao và lâu dài. Mỗi ngày, vườn dừa thu hoạch trung bình khoảng 1.500 trái, cao điểm lúc bỏ mối cho thương lái có thể hái 10.000 trái/ngày. Hiện, dừa xiêm xanh loại 1 có giá 11.000 đ/trái, loại 2 từ 7.000- 10.000 đ/trái. Sau khi trừ chi phí thì còn lợi nhuận cao. Thời điểm này, mặt hàng dừa rất hút hàng, hái bao nhiêu là tiêu thụ hết bấy nhiêu, nhưng vẫn không đủ cung ứng cho thị trường”- anh Tâm chia sẻ.

Để hạn chế chi phí phân bón, anh Tâm còn tận dụng diện tích vườn trống trồng cỏ để nuôi bò và nuôi cá dưới ao, sau đó, dùng phân bò, phân cá bón cho cây dừa. Không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn giúp dừa phát triển tốt, đạt chất lượng.

“Định hướng thời gian tới, sẽ mở rộng diện tích trồng dừa thêm 20ha. Hiện, tôi cũng đã trồng thử nghiệm dừa này ở tỉnh An Giang, Long An, Kiên Giang… Về lâu dài, khi thị trường dừa tươi có bão hòa thì sẽ tiếp tục phát triển thêm các sản phẩm được chế biến từ dừa như kem dừa, rau câu dừa, sương sâm dừa, sinh tố kem dừa, dừa nướng… Tôi mong muốn sẽ đưa sản phẩm dừa Vĩnh Long đi xa hơn và khẳng định thương hiệu trên thị trường”- anh Tâm tâm huyết nói.

Không chỉ là mô hình phát triển kinh tế gia đình, anh Tâm còn tạo việc làm cho nhiều lao động tại địa phương. Đang thử dừa lên độ cơm để hái giao cho thương lái, anh Nguyễn Hoàng Duy (TX Bình Minh) cho hay: “Nhờ có vườn dừa của anh Tâm mà tôi có thêm việc làm từ việc hái dừa, mỗi ngày từ 400.000- 500.000đ”.

Bà Lê Thị Bình Cư- Chủ tịch UBND xã Lộc Hòa (huyện Long Hồ) cho hay: Sản phẩm “Dừa xanh lục Thiên Thanh” đã đạt chứng nhận OCOP 3 sao của huyện năm 2023. Đây là mô hình sản xuất hiệu quả, đem lại giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ ổn định và tiềm năng phát triển về lâu dài. Trồng dừa vừa dễ thực hiện lại ít công chăm sóc nên đã có những hộ dân học hỏi phát triển mô hình.

Về phía anh Tâm cũng đã có kết nối với các hộ dân xung quanh để liên kết sản xuất. Hiện địa phương đang có hướng nhân rộng phát triển mô hình và khuyến khích các hộ dân thực hiện, mở rộng diện tích trồng để cải thiện cuộc sống và phát triển kinh tế gia đình. Thời gian tới, xã sẽ tích cực hỗ trợ quảng bá giới thiệu sản phẩm, đồng thời, có hướng hỗ trợ thêm để hộ kinh doanh đầu tư máy móc, thiết bị, nâng cao mẫu mã sản phẩm, để sản phẩm đi xa hơn.

Bài, ảnh: THẢO LY

 

Phát triển vùng nguyên liệu mía xanh, bền vững

 

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Công ty cổ phần Thành Thành Công - Biên Hoà đã ban hành chính sách thu mua mía tại vùng nguyên liệu của nhà máy sát với diễn biến giá đường trên thị trường, với giá thu mua mía tăng từ 10%-15% so với vụ 2022-2023.

Từ giữa tháng 11.2023, Nhà máy TTCS- đơn vị thành viên của Công ty cổ phần Thành Thành Công - Biên Hoà (TTC AgriS) - bắt đầu tiếp nhận mía, chính thức bước vào vụ ép 2023-2024. Vụ ép này diễn ra trong bối cảnh ngành mía đường có nhiều chuyển biến tích cực, giá đường thế giới phục hồi và tăng trưởng. Để khuyến khích nông dân, trong vụ ép 2023-2024, Công ty cổ phần Thành Thành Công - Biên Hoà đã ban hành chính sách thu mua mía tại vùng nguyên liệu của nhà máy sát với diễn biến giá đường trên thị trường, với giá thu mua mía tăng từ 10%-15% so với vụ 2022-2023.

 

 

Tưới mía tại Nông trường Thành Long.

Anh Bùi Văn Châu, ấp Thạnh Thọ, xã Thạnh Bình, huyện Tân Biên cho biết, anh trồng 8 ha mía, trong đó, có 3 ha mía tơ và 5 ha mía gốc. Vụ 2023-2024 thu hoạch 5 ha, năng suất trung bình hơn 80 tấn/ha; chữ đường 10.07 CCS, anh thu được lợi nhuận trên 50 triệu đồng/ha.

Anh Châu chia sẻ, tình hình sản xuất năm nay có nhiều thuận lợi, giá cả tốt nên nông dân rất phấn khởi. Trong những năm qua, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiệu quả các mô hình khuyến nông của nhà máy như trồng mía giống mới, sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh, thả ong mắt đỏ, chế phẩm phân bón lá và tưới mía hữu hiệu… nên ruộng mía của anh luôn cho năng suất, chữ đường cao, mía lưu gốc tốt (đến 7 vụ).

Về phía nhà máy cũng hỗ trợ kịp thời nhu cầu về kỹ thuật canh tác, vật tư nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp cho nông dân để phục vụ cho sản xuất. Trong niên vụ mới, anh mong muốn nhà máy tiếp tục đồng hành cùng nông dân về giá thu mua, các chính sách hỗ trợ, chuyển giao khoa học kỹ thuật... để nông dân yên tâm sản xuất.

Vụ mía 2023-2024 được đánh giá là vụ mùa thành công đối với ngành mía đường. Theo Công ty cổ phần Thành Thành Công - Biên Hoà, đây là vụ mùa thuận lợi về năng suất cũng như thị trường, giá cả.

Ông Nguyễn Thanh Ngữ- Tổng Giám đốc Công ty cho biết, tổng diện tích vùng nguyên liệu mía Công ty tập trung phát triển cả trong và ngoài nước là 71.000 ha (vùng nguyên liệu trong nước chiếm 70%), tăng hơn 7.000 ha so với niên độ 2022-2023. Trong đó, vùng nguyên liệu Tây Ninh đạt 16.800 ha, tăng trưởng 18% so với niên độ trước.

Qua thống kê, năng suất vùng nguyên liệu tại Việt Nam đạt bình quân 78 tấn/ha, tại Campuchia khoảng 60 tấn/ha. Dự kiến tổng sản lượng kết thúc vụ ép 2023-2024 riêng tại Nhà máy Tây Ninh là 1,2 triệu tấn. Đây là cột mốc kỷ lục của nhà máy từ khi thành lập đến nay.

“Khách hàng và công ty là một hệ sinh thái gắn kết và thống nhất, do vậy để tiến tới mục tiêu phát triển bền vững, chính sách phát triển vùng nguyên liệu luôn được công ty ưu tiên và đặt làm trọng tâm”, ông Nguyễn Thanh Ngữ chia sẻ.

Chính sách của Công ty tập trung vào ba nhóm chính. Nhóm một là các chính sách liên quan đến quy hoạch tổ chức hoạt động sản xuất, bao gồm triển khai các giải pháp trồng mới, trồng sớm, trồng đúng vụ ép, đặc biệt tổ chức sản xuất đưa các nhà máy vào ép sớm và chạy xuyên tết để bảo đảm tiêu thụ mía cho nông dân với chất lượng tốt nhất trong giai đoạn chính vụ. Những hộ trồng mía Hè Thu 2024 sẽ được áp dụng thêm một số chính sách ưu đãi để sản xuất mía giống chất lượng cao.

Nhóm hai về chính sách đầu tư và các hoạt động khuyến nông. Với một vùng nguyên liệu trải dài, Công ty đang đầu tư và gắn kết gần 10.000 hộ nông dân và hằng năm giải ngân vốn cho bà con trên 1.000 tỷ đồng, trong đó, tập trung vào các chương trình đầu tư thâm canh về hệ thống tưới, giải pháp tưới tiết kiệm, máy móc cơ giới, thiết bị GPS (canh tác chính xác) để bảo đảm tính mùa vụ; đặc biệt tập trung vào cung ứng các giải pháp liên quan đến dinh dưỡng hữu cơ từ các chất thải như bã bùn để tạo thành một nền kinh tế khép kín, tuần hoàn, tái tạo đất.

Nhóm ba về chính sách liên quan đến hỗ trợ và chuyển giao khoa học kỹ thuật, trong đó, có chính sách hỗ trợ vốn đầu tư trồng và chăm sóc mía; chính sách hỗ trợ kỹ thuật canh tác, thu hoạch mía; chính sách thu mua, hướng tới hài hoà lợi ích của khách hàng với công ty theo điều kiện thị trường, giúp nông dân an tâm với lợi nhuận từ cây mía.

Ông Nguyễn Thanh Ngữ cho biết thêm: “Mặc dù tăng trưởng rất nhanh về diện tích cũng như năng suất, tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, Công ty vẫn chưa đạt được công suất tối ưu cho tổng thể hoạt động của TTC AgriS.

Riêng tại Tây Ninh, Công ty có kế hoạch mở lại hoạt động sản xuất Nhà máy Biên Hoà Tây Ninh cũng như Nhà máy đường Nước Trong. Do vậy, trong thời gian tới, Công ty sẽ tập trung đầu tư và phát triển mở rộng diện tích tại Tây Ninh, đặt mục tiêu phát triển trên 20.000 ha”.

Trước mắt ở vụ ép 2024-2025, Công ty có kế hoạch tăng diện tích cũng như năng suất, chất lượng mía tại Tây Ninh đạt trên 18.000 ha và 80 tấn/ha. Bên cạnh đó, Công ty sẽ chủ động chuyển giao khoa học kỹ thuật tiên tiến, tập trung đồng bộ cơ giới hoá, triển khai các chính sách đầu tư, xây dựng cánh đồng liên kết diện tích mía lớn, đáp ứng nhu cầu về vốn, máy móc thiết bị; đẩy mạnh các mô hình khuyến nông, không ngừng cải tiến công tác quản lý, điều hành với nhiều hình thức linh hoạt...

Từ đó, hướng tới phát triển bền vững và phát triển mô hình kinh tế nông nghiệp thông minh tích hợp, nhằm định hướng thị trường, sản phẩm, thúc đẩy tư duy kinh tế nông nghiệp tuần hoàn vượt ra khỏi giá trị thuần tuý của cây trồng.

Trong niên vụ 2023-2024, sản xuất mía gặp không ít thách thức trước tình trạng El Nino. Công ty đã có những phân tích và dự báo trước, tập trung vào thiết kế các giải pháp nhằm triển khai các chính sách về khoa học kỹ thuật để đưa vào khuyến nông. Đặc biệt tập trung vào giống có khả năng chịu hạn, dinh dưỡng hữu cơ, giúp cây mía sinh trưởng tốt, vượt hạn và các giải pháp liên quan đến tưới để cây mía cho năng suất tốt.

Trúc Ly - Nhi Trần

 

Yên Bái: Thị trấn nông trường Liên Sơn mở rộng diện tích mắc ca xen chè

 

Nguồn tin: Báo Yên Bái

Với diện tích trên 500 ha chè, thị trấn Nông trường Liên Sơn là một trong những vùng chè lớn ở huyện Văn Chấn (Yên Bái), tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hàng nghìn lao động địa phương. Để tiếp tục phát triển, kinh doanh chè bền vững và hiệu quả, thị trấn đang tích cực vận động nhân dân trồng mắc ca xen chè, tạo ra triển vọng mới để nâng cao thu nhập cho người dân.

 

 

Bà Lê Thị Tuyết kiểm tra sự sinh trưởng, phát triển của cây mắc ca.

Tháng 3, khi những luống chè LDP, PH1 mới bắt đầu đâm chồi nảy lộc, những hàng mắc ca xen chè ở thị trấn đã trổ những chùm hoa đỏ tía. Năm nay là năm thứ 2 gia đình bà Lê Thị Tuyết ở tổ dân phố 1 có thêm niềm vui, niềm hy vọng từ hơn 200 cây mắc ca trồng xen vào diện tích 1 ha chè đã được cải tạo bằng giống chè LDP2. Trước đây, diện tích chè này cho năng suất trên 20 tấn mỗi năm nhưng trừ chi phí thu nhập của gia đình bà cũng chỉ đạt trên 50 triệu đồng. Vì vậy, năm 2021, được chính quyền thị trấn vận động trồng mắc ca, gia đình bà đã mạnh dạn đăng ký trồng xen cho toàn bộ diện tích.

Đến nay, sau hơn 4 năm trồng chăm sóc, diện tích mắc ca đều sinh trưởng, phát triển tốt và bắt đầu cho quả bói. Tuy chưa có thu nhập nhưng với việc tạo bóng mát và cảnh quan vườn đồi xanh mát, bà và mọi người dân rất phấn khởi tin tưởng vào triển vọng mà cây mắc ca đem lại. Bà Tuyết cho biết: "Tôi thấy cây mắc ca rất dễ trồng, sinh trưởng phát triển nhanh, ít sâu, bệnh. Đặc biệt, khả năng chịu hạn rất tốt, cây xanh tốt quanh năm. Bà con mong được hướng dẫn cách chăm sóc, phòng trừ sâu, bệnh và hy vọng cây sẽ sai hoa, đậu quả để có thêm thu nhập.

Cùng với gia đình bà Tuyết, 3 năm qua, được sự động viên của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự hỗ trợ về cây giống và kỹ thuật của huyện Văn Chấn, gần 100 hộ dân ở thị trấn Nông trường Liên Sơn đã tham gia trồng trên 70 ha mắc ca xen chè. Là cây trồng mới, khi đưa vào trồng thử nghiệm nhiều hộ còn lo lắng về khả năng phát triển cũng như đầu ra cho sản phẩm. Nhưng khi được hướng dẫn trồng chăm sóc và chứng kiến khả năng thích nghi, tốc độ sinh trưởng của loài cây này, nhiều người đã tích cực tham gia.

Ông Trần Quang Chất - Tổ trưởng tổ dân phố 1 cho biết: "Ở tổ dân phố tôi, hộ nào cũng tham gia trồng mắc ca xen chè. Một số hộ đang luyến tiếc vì không tham gia dự án sớm nên giờ mới trồng được một phần diện tích. Nhìn chung, bà con rất phấn khởi vì cây mắc ca phát triển tốt, vừa tạo bóng mát, cảnh quan phục vụ sản xuất chè vừa có thêm thu nhập. Nếu cây sai hoa, đậu quả thì vài năm tới không chỉ trồng xen mà nhiều hộ đã có dự định dành đất để trồng thuần”.

Với 500 ha chè hầu hết đã được trồng mới và trồng cải tạo bằng các giống chè chất lượng cao, đến nay, năng suất chè bình quân của nhân dân thị trấn đạt gần 20 tấn/ha. Tuy nhiên, giá trị đem lại trên mỗi diện tích sau khi trừ chi phí cũng chỉ đạt trên 50 triệu đồng/ha/năm. Với trên 70% dân số có thu nhập chính từ cây chè, để nâng cao thu nhập cho người dân, ngoài việc thâm canh tăng năng suất thì việc trồng xen canh các cây trồng có giá trị là một trong những giải pháp hữu hiệu.

Để thực hiện mục tiêu mở rộng diện tích mắc ca xen chè, thị trấn đã tăng cường tuyên truyền, vận động người dân giao trách nhiệm cho cán bộ làm trước và hướng dẫn người dân thực hiện. Vì vậy, các diện tích mắc ca trồng đến đâu đều đạt tỷ lệ sống cao và sinh trưởng phát triển rất nhanh.

Ông Đoàn Quang Kỳ - Phó Chủ tịch UBND thị trấn Nông trường Liên Sơn cho biết: "Với kết quả bước đầu, thị trấn đang có chủ trương mở rộng diện tích mắc ca xen chè. Trong các cuộc họp chúng tôi đã lồng ghép tuyên truyền, vận động nhân dân tiếp tục tìm tòi, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trồng, chăm sóc mở rộng diện tích mắc ca xen chè, tiến tới trồng thuần. Mặt khác, chúng tôi cũng theo dõi chặt chẽ quá trình sinh trưởng, phát triển và các loại sâu, bệnh hại của cây mắc ca, phối hợp với các đơn vị chức năng của huyện, các nhà khoa học hướng dẫn nhân dân trồng mắc ca hiệu quả”.

Vẫn còn khá sớm để đánh giá hiệu quả của cây mắc ca trên đồng đất Văn Chấn nhưng với khả năng thích nghi, sinh trưởng nhanh và ra quả bói, cây mắc ca đã khẳng định là phù hợp với đất đai, khí hậu nơi đây. Thị trấn Nông trường Liên Sơn tiếp tục vận động nhân dân mở rộng diện tích mắc ca xen chè và trồng thuần, phấn đấu năm 2024 trồng thêm từ 10 - 15 ha và đến năm 2025, trên 50% diện tích chè được trồng xen cây mắc ca.

Trần Van (Trung tâm TT&VH huyện Văn Chấn)

 

Kon Plông (Kon Tum): Phát triển cà phê xứ lạnh

 

Nguồn tin: Báo Kon Tum

Với mục tiêu và định hướng đúng, huyện Kon Plông (Kon Tum) đang triển khai thực hiện Đề án phát triển cây cà phê xứ lạnh bền vững năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, huyện phấn đấu đến năm 2030 phát triển 2.000,22ha cà phê xứ lạnh, xây dựng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói cà phê theo tiêu chuẩn VietGap, hữu cơ, góp phần tạo việc làm và nâng cao đời sống người dân.

Cây cà phê xứ lạnh phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng ở huyện Kon Plông. Nhiều hộ dân ở các xã Đăk Long (nay là thị trấn Măng Đen), Măng Bút, Măng Cành, Hiếu từng được hỗ trợ từ Đề án hỗ trợ phát triển cây cà phê trồng cà phê xứ lạnh hiệu quả, có cuộc sống ổn định và khá giả. Tuy nhiên, cũng có những hộ hết thời gian hỗ trợ từ Đề án này, không tiếp tục đầu tư chăm sóc, vườn cà phê xuống cấp.

Mới đây, có chuyến đi dọc dài từ xã Măng Bút (Kon Plông) về hướng xã Ngọc Yêu (Tu Mơ Rông), tôi thấy có những vườn cà phê xứ lạnh phát triển tốt, đang phát huy hiệu quả. Ông A Dân - Phó Chủ tịch UBND xã Măng Bút chia sẻ, cà phê xứ lạnh phù hợp đất đai, khí hậu địa phương; nhiều hộ gia đình trồng cà phê xứ lạnh có thu nhập 30-40 triệu đồng/năm từ cà phê.

 

 

Vườn cà phê xứ lạnh ở thị trấn Măng Đen phát triển trước đây từng sai quả. Ảnh: V.N

Tuy nhiên, cũng phải nói thật rằng, bên cạnh vườn cà phê xứ lạnh phát triển tốt, vẫn còn có những vườn cà phê xứ lạnh cằn cỗi do không được người dân quan tâm đầu tư chăm sóc theo đúng quy trình. Đối với những vườn cà phê như thế, cần được quan tâm đầu tư phục hồi hay tái canh.

Trao đổi về phát triển cà phê xứ lạnh, ông Huỳnh Xuân Hậu – Chủ tịch UBND xã Măng Bút cho biết, thực hiện chủ trương của UBND huyện, UBND xã đang có kế hoạch đến năm 2030 phát triển 142,7ha cà phê xứ lạnh. Đối tượng tham gia là những hộ có diện tích đất từ 0,5ha và những nhóm hộ có diện tích đất liền kề từ 3ha trở lên; có nhận thức, nhân công lao động đảm bảo và biết áp dụng cơ giới vào sản xuất. Riêng năm 2024, xã có kế hoạch trồng mới 20ha cà phê xứ lạnh.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy Kon Plông về phát triển cây cà phê xứ lạnh, ngày 18/01/2024, UBND huyện có Quyết định số 49/QĐ-UBND về phê duyệt Đề án phát triển cây cà phê xứ lạnh bền vững năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, huyện giao Phòng NN&PTNT chủ trì, phối hợp với các phòng, ban, ngành, đơn vị có liên quan, UBND các xã, thị trấn tổ chức thực hiện Đề án.

Thống kê trên địa bàn huyện cho thấy, tổng diện tích cà phê hiện có trên địa bàn huyện là 650,22ha, trong đó có 240,45ha cà phê theo Đề án cà phê xứ lạnh được trồng trong những năm trước; hiện có 556,27ha cho thu hoạch.

Từ kết quả khảo sát thực tế, huyện cho thấy giống cà phê sử dụng trong sản xuất của hộ dân chủ động mua về trồng, chủ yếu là giống cà phê chè Catimor năng suất đạt không cao, khả năng kháng bệnh gỉ sắt, thán thư kém so với những giống cà phê xứ lạnh mới (TN1,TN2,THA1…) được công nhận, khuyến cáo để thay thế dần giống cà phê chè Catimor. Phần lớn diện tích cà phê chè Catimor người dân trồng phát triển tự nhiên, ít được quan tâm chăm sóc, tác động các biện pháp kỹ thuật cơ bản như bón phân, tỉa cành, phòng trừ sâu bệnh hại, vì vậy, năng suất cà phê thấp, phẩm chất khó có khả năng đáp ứng được chế biến và nhu cầu của thị trường tiêu thụ, cần được cải tạo bằng các biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng trong thời gian đến.

Theo ông Lê Đức Tín – Phó Chủ tịch UBND huyện Kon Plông, Đề án phát triển cây cà phê xứ lạnh trên địa bàn huyện đặt mục tiêu đến năm 2025 phát triển diện tích trồng cà phê xứ lạnh 1.318,22ha (trồng mới 668ha, tái canh 60,5ha); nâng cao năng suất trung bình giai đoạn thu hoạch tại các xã, thị trấn ở mức 17-19 tạ nhân/ha. Đồng thời, huyện thu hút đầu tư 1 nhà máy chế biến cà phê; xây dựng ít nhất là 2 chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cà phê xứ lạnh trên địa bàn với hạt nhân là các hợp tác xã, doanh nghiệp là trụ cột; xây dựng ít nhất 5 sản phẩm OCOP đối với sản phẩm cà phê xứ lạnh đã qua chế biến; ít nhất một thương hiệu cho cà phê xứ lạnh mang bản sắc và đặc trưng riêng của xứ sở Măng Đen; triển khai áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất cà phê theo các tiêu chuẩn sản xuất cà phê bền vững có chứng nhận/xác nhận như cà phê hữu cơ; cà phê 4C và VietGAP theo yêu cầu của thị trường trong nước và thế giới.

Mục tiêu đến năm 2030, phát triển vùng sản xuất cà phê xứ lạnh trên địa bàn huyện đạt hơn 2.000ha; ổn định năng suất ở mức 20-22 tạ nhân/ha. Đồng thời, hoàn thành việc xây dựng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ; nâng cao công suất nhà máy chế biến cà phê, mở rộng quy mô sản xuất chế biến các sản phẩm từ cà phê xứ lạnh; phấn đấu 80% các hộ sản xuất cà phê trên địa bàn huyện tham gia vào các tổ hợp tác, hợp tác xã; phấn đấu đạt từ 7 sản phẩm OCOP đạt 4 sao cấp tỉnh trở lên đối với sản phẩm cà phê xứ lạnh.

Với mục tiêu và hướng phát triển cây cà phê xứ lạnh đúng đắn, cùng với quyết tâm của hệ thống chính trị và nhân dân trong việc triển khai đồng bộ các giải pháp trong thời gian đến, việc phát cây cà phê xứ lạnh trên địa bàn huyện sẽ góp giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho đồng bào DTTS ở địa phương.

Văn Nhiên

 

Nhà nông tiên phong chuyển đổi canh tác theo xu thế mới

 

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Cùng với tinh thần năng động và kinh nghiệm hơn 25 năm gắn bó với nghề nông, anh Huỳnh Văn Chiến ở phường Tân Hưng, quận Thốt Nốt (TP Cần Thơ) đã tiên phong chuyển đổi canh tác cây trồng theo xu thế thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình. Anh Chiến còn phát huy vai trò thủ lĩnh của Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Thân Thiện, tổ chức tốt dịch vụ đầu vào và đầu ra hỗ trợ thành viên, dẫn dắt hàng trăm nhà nông vào HTX canh tác các loại cây trồng theo nhu cầu thị trường, mang lại giá trị kinh tế và nguồn thu nhập cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

 

 

Anh Huỳnh Văn Chiến, Giám đốc HTX Nông nghiệp Thân Thiện chăm sóc vườn na Thái…

Tiên phong chuyển đổi canh tác

Anh Huỳnh Văn Chiến là một trong những gương nông dân điển hình ở quận Thốt Nốt, luôn đi đầu trong xu hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng có giá trị kinh tế cao tại địa phương. Cùng với kinh nghiệm hơn 25 năm gắn bó với nghề nông, anh Chiến không ngừng sáng tạo và tìm tòi những mô hình canh tác nông nghiệp mới để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Với những nỗ lực đó, đến nay anh Chiến đã gầy dựng được một ngôi nhà khang trang, với gần 2ha đất chuyên canh nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao cùng với 1 cửa hàng kinh doanh vật tư nông nghiệp, mang lại nguồn thu nhập cho gia đình 1-2 tỉ đồng/năm.

Chia sẻ hành trình chuyển đổi canh tác nông nghiệp theo xu thế mới, anh Chiến nói: Trước đây, gia đình tôi cũng như nhiều bà con làm nông ở đây chủ yếu trồng lúa hàng hóa, nhưng giá trị kinh tế mang lại không cao. Theo đó, ban đầu anh chuyển đổi canh tác, bằng cách luân canh lúa - mè trong nhiều năm liền, nhưng do biến động thị trường, đầu ra cây mè gặp khó, thu nhập mang lại không cao. Ðể thoát khỏi cảnh khó, anh Chiến quyết tâm tìm các loại cây trồng mới, có giá trị kinh tế, mà thị trường đang cần và năm 2017 bắt đầu trồng thử cây đậu nành rau và bắp Mỹ trên 2ha đất hiện có của gia đình. Và bước đầu đã cho kết quả thành công, bởi bắp Mỹ và đậu nành rau có hương vị ngon, lại có giá trị về dinh dưỡng, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường, nên được nhiều thương lái, doanh nghiệp thu mua với giá khá cao. Tuy nhiên, sau 1 vài năm canh tác, chi phí đầu tư sản xuất cho các loại rau màu này càng tăng cao, nên lợi nhuận giảm nhiều so với trước. Từ đó, đã thôi thúc anh Chiến tìm hướng đi mới trong canh tác nông nghiệp và anh nhận thấy cây na Thái đang là cây trồng đặc sản, có giá trị kinh tế cao, nên năm 2021 anh Chiến bắt đầu trồng cây na Thái, với diện tích ban đầu là 1ha. Qua 2 năm trồng, cây na Thái đã cho trái thu hoạch vụ đầu tiên, với năng suất đạt 8 tấn/ha, bán với giá từ 40.000-50.000 đồng/kg, tùy thời điểm và với 1ha đất trồng na Thái, mỗi năm thu hoạch được 2 vụ, mang lại thu nhập từ 600-800 triệu đồng/năm.

Anh Chiến còn mở cửa hàng vật tư nông nghiệp cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… cho nông dân theo hình thức trả chậm. Theo đó, sau mỗi vụ thu hoạch rau màu hay cây ăn trái, bà con mới mang tiền đến thanh toán cho cửa hàng. Không chỉ hỗ trợ lãi suất mua vật tư cho nông dân, nhất là bà còn có hoàn cảnh khó khăn, anh Chiến còn nhiệt tình hướng dẫn bà con kỹ thuật trồng, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đúng cách… để tiết giảm được chi phí sản xuất, nhưng cây trồng vẫn đạt hiệu quả cao về năng suất và chất lượng. Với sự thân thiện của anh Chiến và có thể nói tiếng lành đã đồn xa, nên cửa hàng vật tư của anh ngày càng thu hút được nhà nông tìm đến mua vật tư cũng như học hỏi kỹ thuật, kinh nghiệm làm nông và doanh thu của cửa hàng ngày càng tăng so với trước.

Thủ lĩnh HTX nhiệt huyết

Với tinh thần nhiệt huyết chuyển đổi canh tác nông nghiệp đạt hiệu quả cao và tấm lòng thân thiện, tương trợ nhà nông làm nông theo xu hướng hiện đại, năm 2017, anh Chiến được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khen thưởng vì đã có những đóng góp tích cực trong phát triển nông nghiệp tại địa phương.

Ðể tương trợ, giúp nông dân nâng cao thu nhập và nâng cao đời sống, năm 2017, anh Chiến và những người cùng chí hướng đã thành lập HTX Nông nghiệp Thân Thiện, có 17 thành viên, với tổng diện tích canh tác gần 19ha. Theo đó, HTX đã gầy dựng cơ sở hoạt động, mở rộng mặt bằng kinh doanh vật tư nông nghiệp ở quốc lộ 91, phường Tân Hưng để tổ chức dịch vụ cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho thành viên, với giá rẻ hơn so với thị trường từ 3-5%; triển khai cung cấp giống cây trồng và phân bổ diện tích gieo trồng cho thành viên theo thời vụ, dựa trên khối lượng và chủng loại nông sản mà HTX đã ký hợp đồng với đối tác… Với vai trò Giám đốc HTX, anh Chiến đã tiên phong khơi nguồn, hỗ trợ hàng trăm nhà nông chuyển đổi canh tác, trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, theo xu thế thị trường và đã đem lại nguồn thu nhập cao cho nhà nông.

Qua 8 năm đi vào hoạt động, HTX Nông nghiệp Thân Thiện đã không ngừng phát triển số lượng thành viên và diện tích canh tác. Hiện HTX có 39 thành viên, với diện tích canh tác 59ha và có 100 hộ liên kết, với tổng diện tích hơn 500ha, chuyên trồng các loại rau màu, trong đó bắp Mỹ, đậu nành rau và cây na Thái đang là những cây trồng chủ lực. Ðến nay, HTX có năng lực cung ứng hơn 400 tấn phân, thuốc bảo vệ thực vật cho thành viên và các hộ liên kết; cung cấp trên 40 tấn nông sản các loại/ngày, mang lại thu nhập ổn định cho thành viên và doanh thu của HTX đạt trên 6 tỉ đồng/năm.

Theo anh Chiến, để HTX phát triển ổn định và bền vững, tạo dựng uy tín thương hiệu với khách hàng, đối tác được như ngày nay là cả quá trình gian nan trong hành trình gầy dựng niềm tin hợp tác, gắn kết giữa thành viên với tập thể HTX. Ðặc biệt, để tạo niềm tin cho nhà nông và thành viên vào ngôi nhà chung, HTX rất chú trọng đến chất lượng phân thuốc do mình cung ứng; đồng thời tích cực đồng hành với nhà nông về mọi mặt, như hướng dẫn bà con cách làm đất, sử dụng phân bón, kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh… để tiết giảm tối đa chi phí sản xuất, nhưng vẫn đảm bảo cho cây trồng đạt năng suất và chất lượng theo yêu cầu thị trường.

HTX thường xuyên tạo điều kiện để thành viên và nông hộ vào HTX tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật canh tác, quản lý dịch hại, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất để nâng cao hiệu quả canh tác cây trồng. Anh Trần Quốc Tuấn, nông dân HTX nông nghiệp Thân Thiện, cho biết: “Nhờ có sự hỗ trợ đồng hành của HTX, nhất là sự nhiệt huyết của anh Chiến, tận tình hướng dẫn tôi chuyển hướng canh tác, tận dụng 1,7ha diện tích vườn sẵn có, trồng cây na Thái đạt chất lượng cao, theo nhu cầu thị trường. Ðể có được khu vườn na Thái đạt chất lượng tốt nhất, tôi được anh Chiến truyền đạt nhiều kinh nghiệm hay trong cách sử dụng nước tưới, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đúng liều lượng đến các quy trình tỉa cành, tỉa trái, xử lý các loại nấm bệnh, dịch bệnh trên trái, để trái na Thái đến độ thu hoạch đạt chất lượng to, đều, đẹp và sáng bóng, đáp ứng yêu cầu của thị trường, bán được giá cao.” Và với diện tích 1,7ha hiện có của anh Tuấn, năng suất thu hoạch đạt hơn 30 tấn/2 vụ/năm, bán với giá từ 40.000 đồng/kg, gia đình sẽ có thu nhập trên 1 tỉ đồng/năm.

Không chỉ hỗ trợ nhà nông chuyển đổi canh tác cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, HTX Nông nghiệp Thân Thiện còn đảm bảo cung ứng nông sản đạt các yêu cầu về số lẫn chất lượng cho các đối tác và khách hàng. Nhờ đó, HTX đã tạo được uy tín thương hiệu, giữ mối làm ăn lâu bền và ký kết hợp đồng tiêu thụ ổn định với các đối tác, doanh nghiệp trong và ngoài thành phố. Với những ưu thế này, nên dù thị trường gặp nhiều biến động về giá cả, nhất là ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 vừa qua, nhưng HTX vẫn đảm bảo đầu ra nông sản và ổn định đời sống của thành viên HTX cũng như nông dân làm ăn với HTX. Không chỉ hỗ trợ thành viên và nông dân ăn nên làm ra, HTX còn tích cực tham gia công tác an sinh xã hội, quyên góp hơn 30 tấn lương thực, rau củ, nhu yếu phẩm cung cấp cho “chuyến xe 0 đồng” trong đợt dịch COVID-19; đóng góp kinh phí xây dựng cầu, đường nông thôn… tại địa phương.

Với những thành tích góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, HTX Nông nghiệp Thân Thiện là trong những mô hình kinh tế tập thể điển hình của thành phố; được Chủ tịch UBND TP Cần Thơ trao tặng danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc” năm 2023; được nhận bằng khen của UBND TP Cần Thơ vì có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua năm 2021 và 2022…

Bài, ảnh: MỸ HOA

 

Cây ươi ‘bay’

 

Nguồn tin:  Báo Kon Tum

Đến hẹn lại lên, 4 năm một lần cây ươi ra trái thì người dân ở nhiều nơi đổ xô vào rừng hái ươi. Để hái được nhiều ươi, nhiều người không ngần ngại chặt hạ cây không thương tiếc.

Hơn một tháng nay, đã có hàng ngàn lượt người dân ở rất nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Kon Tum ồ ạt kéo nhau vào rừng ở huyện Sa Thầy và huyện Ia H’Drai để hái trái ươi bán cho các thương lái. Mỗi chuyến đi thường kéo dài từ 3 - 4 ngày, hái được từ 20 - 60 kg ươi. Với giá thu mua ngay tại bìa rừng dao động từ 120 ngàn đồng đến 500 ngàn đồng/kg (tùy theo từng loại ươi) thì những người đi hái ươi mỗi ngày kiếm cũng được cả triệu đồng. Chính vì trái ươi có giá trị kinh tế cao, nên mỗi ngày có rất nhiều người ở các xã trên địa bàn các huyện Sa Thầy, Ngọc Hồi, Ia H’Drai và một số địa phương khác đã cơm đùm, cơm nắm kéo nhau vào rừng hái rầm rộ. Vì trái ươi có giá trị kinh tế cao nên nhiều người không chỉ nhặt ươi bay mà còn tận thu bằng cách chặt hạ luôn cả cây ươi để hái cả trái còn xanh, đem về phơi khô bán hoặc bán quả còn xanh cho các thương lái.

Anh Nguyễn Văn T. ở xã Ya Xiêr (huyện Sa Thầy) - một người có thâm niên chuyên đi hái ươi nhiều chục năm cho biết: Cứ theo chu kỳ 4 năm cây ươi sẽ cho ra quả một lần, so với các chu kỳ trước thì năm nay giá ươi cao nhất và cũng được cho là trúng mùa nhất. Mùa ươi năm nay, mặc dù mới vào mùa chưa lâu nhưng những thời điểm giá ươi lên trên 500 ngàn đồng/kg nên mỗi ngày những người đi hái ươi cũng kiếm được vài triệu đồng. Do giá ươi năm nay quá cao nên người đi hái ươi trong xã và các địa phương lân cận đổ xô vào rừng khá nhiều nên sợ thu nhập cũng sẽ ảnh hưởng nhiều người sẵn sàng chặt hạ cây ươi để hái trái.

 

 

Chưa vào chính vụ nhưng cây ươi đã “bay” không ít. Ảnh: B.C

Cũng như anh T., gia đình ông A Bănh ở xã Ya Tăng (huyện Sa Thầy) quanh năm chỉ sống dựa vào hơn 1ha đất trồng mì và chuyên sống bằng nghề làm thuê, năm nay nhờ đi hái ươi nên thu nhập gia đình cũng khấm khá hơn. A Bănh cho biết: Vợ chồng anh có 4 người con, từ lúc ươi vào mùa, 3 đứa con nhỏ cho ở nhà, đứa lớn 16 tuổi phải theo vợ chồng anh vào rừng để hái ươi. Mỗi lần đi vào rừng hái ươi thường kéo dài từ 3 - 4 ngày, từ đầu mùa ươi đến giờ gia đình chỉ mới đi hái được 2 đợt. Do gặp những cây ươi trái còn non nhiều, các thương lái mua giá không cao nhưng 2 chuyến đi bán, gia đình cũng được hơn 9 triệu đồng. Tuy đi hái ươi kiếm được nhiều tiền hơn đi làm thuê nhưng rất vất vả và nguy hiểm. Vì số lượng người đi hái ươi nhiều nên phải lội bộ vào tận trong rừng sâu ở xã Mo Ray để tìm ươi, khi phát hiện cây ươi sau khi nhặt ươi bay xong rồi chặt hạ luôn cả cây để dễ hái, mỗi cây thường hái được từ 10 - 30 kg. Sau khi hái xong, chỉ cần mang ra bìa rừng là có thương lái hỏi mua, nhưng giá mua trong rừng sẽ không cao bằng khi mình chở về nhà. Mặc dù không “trúng đậm” như nhiều nhóm khác, nhưng gia đình A Bănh cũng rất phấn khởi vì cũng có thu nhập cao hơn đi làm thuê nhờ vào rừng hái ươi.

Khi chúng tôi hỏi mua ươi bay một thương lái chuyên thu mua ươi với số lượng lớn hàng chục năm nay ở thôn 5, thị trấn Sa Thầy cho biết: Nay ươi bay hiếm lắm chú ơi! Mới vào đầu mùa ươi bay chưa được bao nhiêu mà cây ươi đã “bay” gần hết rồi nên mấy ngày nay tôi mua toàn ươi xanh, ươi xẻ. Như mọi năm trước thời điểm này đã là sắp hết mùa ươi, nhưng năm nay do mưa muộn quá nên ươi vẫn chưa già lắm mà người dân đã đổ xô vào chặt hạ để hái rồi nên ươi bay khan hiếm lắm. Mỗi ký ươi bay hiện tại cũng đã gần 600 ngàn đồng rồi mà không có để cân bán cho bạn hàng.

Do giá trị kinh tế cao, lại dễ tiêu thụ, nên hiện nay không chỉ có người dân ở các huyện có rừng mà ở các địa phương khác trong và ngoài tỉnh cũng đem theo cưa lốc đổ xô vào rừng để tìm ươi.

Ươi là một loại cây rừng thân gỗ có đường kính gốc có khi lên đến trên 1m, chiều cao từ 20m - 40m và trên 15 tuổi mới có trái. Mặc dù ươi có giá trị kinh tế cao, giúp nhiều người dân cải thiện cuộc sống, nhưng mỗi ngày có rất nhiều người đổ xô vào rừng khai thác ươi theo kiểu tận diệt đã đến mức báo động. Mặc dù ngành kiểm lâm các địa phương đã phối hợp với bộ đội biên phòng và các chủ rừng vào cuộc tuyên truyền, ngăn chặn nhưng do địa bàn rộng, lực lượng mỏng nên không ngăn nổi dòng người vào rừng tìm ươi.

Bảo Châu

 

Chủ động phòng chống dịch bệnh, phát triển chăn nuôi bền vững

 

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Hiện tại, đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh Bình Dương đang được bảo đảm an toàn về dịch bệnh. Tuy nhiên, trong thời gian tới nguy cơ phát sinh các loại dịch bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng, tai xanh, bệnh dại ở chó, mèo là rất cao.

 

 

Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh, ngành chăn nuôi của tỉnh cơ bản phát triển ổn định. Trong ảnh: Cán bộ thú y tiêm vắc xin phòng chống dịch bệnh trên đàn heo

Tiêm phòng vắc xin đầy đủ

Tiêm phòng vắc xin được xem là giải pháp phòng bệnh tốt nhất cho đàn vật nuôi, ngăn chặn dịch bệnh trong thời tiết giao mùa. Đây là biện pháp phòng bệnh chủ động và hiệu quả, nhất là đối với các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm để bảo đảm phát triển chăn nuôi bền vững.

Ông Võ Hữu Thành, đại diện trang trại chăn nuôi gà lông trắng trên địa bàn ấp Mương Đào, xã Long Nguyên, huyện Bàu Bàng, cho biết trang trại hiện có hơn 140.000 con gà lông trắng được chăm sóc theo quy trình kỹ thuật rất khắt khe để đạt chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Mỗi con gà ngay từ khi bắt đầu nuôi đã được tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin để phòng bệnh. Hàng tuần, phun khử trùng toàn bộ khu chuồng trại 1 lần. Đồng thời định kỳ hàng tháng phun thuốc khử mùi 2 lần, bảo đảm chuồng trại và môi trường xung quanh luôn được giữ vệ sinh, sạch mầm bệnh.

Theo đánh giá của ngành chăn nuôi huyện Bàu Bàng, các trang trại chăn nuôi ở địa phương đa số đều chuyển sang công nghệ chăn nuôi chuồng lạnh, từ đó góp phần bảo vệ môi trường và bảo đảm an toàn thực phẩm. Phần lớn các trang trại chăn nuôi gia công cho các công ty như CP, Emivest, Japfa, 3F Việt…

Ông Nguyễn Văn Hiền, Trưởng trạm Chăn nuôi và Thú y huyện Bàu Bàng, cho biết nhằm tạo điều kiện để chăn nuôi phát triển ổn định, bền vững, cung cấp sản phẩm bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng, huyện đã ban hành kế hoạch về việc phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm. Đồng thời, trạm cũng tổ chức nhiều đợt vệ sinh tiêu độc khử trùng, cấp hóa chất cho các xã, thị trấn để tiến hành phun khử trùng, công tác tiêm phòng trên đàn gia súc, gia cầm được triển khai hiệu quả. Trạm luôn chú trọng công tác tuyên truyền, tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi, quy trình thực hành chăn nuôi tốt, các quy định, biện pháp phòng chống dịch, cơ chế chính sách của Nhà nước để người dân nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi.

Theo ông Trần Phú Cường, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh, tổng đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh tương đối lớn, nhưng hình thức chăn nuôi quy mô trang trại hiện chiếm tỷ lệ trên 70% với hơn 200 trang trại. Năm 2023, công tác tiêm phòng của nhiều địa phương được triển khai nhanh, vượt kế hoạch đề ra, đạt trên 90%. Một số địa phương xảy ra ổ dịch đã triển khai ngay và hiệu quả các biện pháp phòng chống, khống chế không để dịch bệnh lây lan diện rộng.

Theo hướng an toàn sinh học

Ông Trần Phú Cường cho rằng để công tác tiêm vắc xin phòng dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm đạt kết quả cao, Chi cục Chăn nuôi và Thú y phối hợp các địa phương tiến hành rà soát chặt chẽ các hộ chăn nuôi trên địa bàn, thống kê tổng đàn vật nuôi, từ đó nắm số lượng để có khuyến cáo hợp lý trong phát triển, tuyên truyền thực hiện đầy đủ việc tiêm phòng đúng tiến độ, bảo đảm nhanh gọn, an toàn. Đồng thời, chi cục thực hiện quản lý, cấp phát và sử dụng vắc xin đúng quy định, đúng đối tượng trong suốt thời gian thực hiện.

Cùng với đó, đơn vị tăng cường giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời, không để dịch bệnh lây lan ra diện rộng; tiếp tục thực hiện kiểm tra, kiểm soát giết mổ bảo đảm an toàn dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm. Các địa phương tiếp tục đẩy nhanh tiến độ tiêm phòng, bảo đảm chất lượng và số lượng trong đợt; tiêm phòng bổ sung cho những gia súc, gia cầm mới phát sinh nhằm hạn chế đến mức thấp nhất dịch bệnh xảy ra, tạo điều kiện để phát triển chăn nuôi bền vững.

Trong bối cảnh dịch bệnh trên đàn vật nuôi còn diễn biến phức tạp, Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh luôn tích cực phối hợp với các địa phương tổ chức tiêm phòng vắc xin định kỳ cho đàn gia súc, gia cầm; đồng thời phối hợp tổ chức các đợt vệ sinh, khử trùng tiêu độc phòng chống dịch bệnh.

Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã và đang hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, thức ăn, thực hiện quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, bảo đảm an toàn dịch bệnh nhằm hạn chế rủi ro. Đồng thời, ngành khuyến cáo người chăn nuôi tham gia, mở rộng các chuỗi liên kết nhằm ổn định giá cả và đầu ra cho sản phẩm. Cùng với đó, chi cục sẽ tăng cường phối hợp cùng các địa phương để theo dõi tình hình phát triển sản xuất chăn nuôi và dịch bệnh, đồng thời thực hiện tăng đàn, tái đàn vật nuôi trên địa bàn tỉnh để bảo đảm nguồn cung cho thị trường.

THOẠI PHƯƠNG

 

Chật vật nuôi dê mùa khô hạn

 

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Dê là một trong những vật nuôi không cần nhiều chi phí đầu tư, dễ nuôi và mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, bởi thức ăn chủ yếu là lá cây và cỏ. Thời gian qua, chăn nuôi dê ở một số địa phương trong tỉnh Bình Phước phát triển mạnh và trở thành mô hình giảm nghèo khá hiệu quả. Tuy nhiên, trước sự tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu cùng nhiều yếu tố khác đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nuôi dê của người dân vào mùa khô.

GẶP KHÓ VÌ THIẾU THỨC ĂN CHO DÊ

Trong mùa mưa, với 4 sào cỏ và hơn 7 sào nọc tiêu sống, gia đình bà Vũ Thị Dệt ở ấp Hiệp Thành, xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh không lo thiếu thức ăn cho đàn dê hơn 50 con, nhưng vào mùa khô hạn thì thức ăn trở nên thiếu trầm trọng. Theo bà Dệt, dù bón phân, tưới nước đầy đủ, chăm sóc kỹ nhưng vườn cỏ phát triển rất chậm, chỉ bằng một nửa so với mùa mưa, nên không đủ cung cấp thức ăn cho đàn dê hằng ngày. Để đảm bảo nguồn thức ăn cho dê, từ đầu mùa khô đến nay, gia đình bà đã bỏ ra gần 40 triệu đồng để mua thêm cỏ, bã mì và cám bổ sung.

Hộ anh Triệu Văn Duy ở ấp Tân Phước, xã Tân Tiến, huyện Bù Đốp nuôi 20 con dê, nhưng cũng luôn trong tình trạng thiếu thức ăn cho dê vào mùa khô. Ngoài 2 sào đất trồng cỏ, hằng ngày vợ chồng anh Duy phải thay phiên nhau ra bờ suối cắt cỏ hoặc xin thêm cỏ, lá cây từ các hộ xung quanh. Dù nuôi với số lượng ít nhưng từ đầu mùa khô đến nay, gia đình anh đã bỏ ra gần 15 triệu đồng mua thêm bã mì và cám cho dê ăn.

 

 

Dù nuôi với số lượng ít nhưng anh Triệu Văn Duy vẫn rất chật vật kiếm thức ăn cho dê

Anh Duy cho hay: “Mùa khô hạn năm nào cũng vậy, người chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn vì thiếu thức ăn cho dê. Để có nguồn thức ăn cho dê, chúng tôi phải đi kiếm khắp nơi, rồi mua thêm cám, bã mì nên rất vất vả. Gia đình nuôi số lượng ít còn đỡ, nhiều hộ nuôi vài chục đến cả trăm con thì càng khó khăn, chật vật hơn”.

GIẢM ĐÀN

Hiện giá dê thịt ở mức khá cao, dao động từ 80-120 ngàn đồng/kg, tùy loại. Đối với dê có trọng lượng từ 12-20kg/con, giá bán 120 ngàn đồng/kg; từ hơn 20-28kg/con giá bán 100-105 ngàn đồng/kg và dê cái 30kg/con trở lên giá chỉ còn 70-80 ngàn đồng/kg… Tuy nhiên, trước thực trạng nguồn thức ăn khan hiếm vào mùa khô hạn, nhiều gia đình phải chọn giải pháp giảm đàn cho phù hợp với điều kiện, khả năng nguồn thức ăn hiện có.

Hộ ông Ngô Đức Nhật ở ấp Hiệp Hoàn, xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh là một trong những hộ nuôi dê nhiều, luôn duy trì đàn từ 100-120 con. Từ đầu mùa khô đến nay, gia đình ông đã xuất bán 5 đợt, mang lại thu nhập hơn 130 triệu đồng, nay chuồng dê chỉ còn hơn 40 con. Theo ông Nhật, gia đình chỉ giữ ổn định đàn như hiện nay cho đến mùa mưa có nguồn thức ăn dồi dào rồi mới tái đàn.

Ông Nhật chia sẻ: “Vào mùa khô, nguồn thức ăn khó khăn nên phải giảm đàn, chứ mua cám với bã mì để nuôi với số lượng lớn là lỗ. Năm nay, giá dê ổn định như vậy là rất tốt, một số năm vừa thiếu thức ăn cho dê vừa bị tư thương ép giá thì còn khó khăn hơn”.

Ông HOÀNG ĐỨC CẢNH, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Tiến, huyện Bù Đốp: Với giá dê hiện nay, người nuôi dê vẫn sống khỏe và đang là nguồn thu nhập chính của không ít hộ dân. Tuy nhiên, trước thực trạng khó khăn thức ăn cho dê trong giai đoạn mùa khô, người dân cần tính toán để duy trì đàn hợp lý, nhưng vẫn đảm bảo nguồn lợi kinh tế gia đình và tiếp tục tái đàn vào mùa mưa.

Theo ông Hoàng Đức Cảnh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Tiến, huyện Bù Đốp, chi phí đầu tư nuôi dê không cao lại dễ nuôi, vì vậy nhiều năm trước, chăn nuôi dê trên địa bàn xã Tân Tiến cũng như huyện Bù Đốp phát triển rất mạnh. Vào cao điểm, tổng đàn dê toàn huyện Bù Đốp khoảng 70.000 con. Đây cũng là một trong những mô hình, giải pháp hỗ trợ giảm nghèo hiệu quả và trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều hộ dân. Trước đây, các hộ nuôi dê chủ yếu dựa vào lá cây lồng mức là nọc tiêu sống. Dù là mùa khô nhưng cây tiêu được chăm sóc tốt nên lá cây của nọc tiêu cũng khá dồi dào, người chăn nuôi không lo thiếu nhiều thức ăn cho dê. Nhưng vài năm trở lại đây, tiêu mất giá, người dân bỏ vườn dẫn đến diện tích tiêu giảm mạnh và nguồn thức ăn cho dê cũng trở nên khó khăn. Vì vậy, vào mùa khô, các hộ dân cần tính toán duy trì đàn hợp lý để giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận.

Văn Đoàn

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop