Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 4 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 4 năm 2024

 

Giá cà phê trong nước sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Trong 2 năm trở lại đây, thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng trưởng tốt. Cụ thể, năm 2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt kỷ lục gần 4,2 tỉ USD. Riêng trong quý I năm 2024, Việt Nam xuất khẩu gần 600 ngàn tấn cà phê với kim ngạch khoảng 1,9 tỷ USD, tăng 3,1% về số lượng nhưng tăng 54,7% về kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ 2023.

 

 

Nông dân huyện Tân Phú thu hoạch cà phê

Đặc biệt, khoảng 1 tháng trở lại đây, giá cà phê vượt ngưỡng 100 ngàn đồng/kg, mức giá cao nhất trong lịch sử từ trước đến nay. Trên thị trường thế giới, giá cà phê cũng đang đứng ở mức cao kỉ lục. Nguyên nhân khiến giá cà phê tăng cao do nguồn cung giảm mạnh.

Theo dự báo của Hiệp hội Cà phê và Ca cao Việt Nam, từ nay đến cuối năm, giá cà phê trong nước sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao. Nguyên nhân do nguồn cung thiếu hụt trầm trọng trong niên vụ cà phê 2022 - 2023. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ ở các thị trường trên thế giới lại đang tăng trưởng tốt.

Diện tích cà phê của Việt Nam giảm mạnh trong thời gian qua. Cụ thể, năm 2022, toàn quốc có 714 ngàn hécta cà phê thì hiện diện tích này chỉ còn 660 ngàn hécta. Riêng Đồng Nai hiện chỉ còn khoảng 5,5 ngàn hécta cà phê, trong đó, nhiều diện tích cà phê bị già cỗi, xen canh với các cây trồng khác. Với mức giá này, cà phê đang là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao thu hút sự quan tâm đầu tư của nông dân. Theo kế hoạch của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, năm 2024, tỉnh Đồng Nai sẽ tăng thêm 500 ha trồng cà phê, tăng tổng diện tích cây trồng này trên địa bàn tỉnh khoảng 6 ngàn ha.

Song Lê

 

Thu nhập hơn 150 triệu đồng từ hoa đu đủ

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Dễ trồng, dễ chăm sóc, nhanh thu hoạch và được thị trường ưa chuộng, anh Nguyễn Thanh Tùng, SN 1988, ấp Đạt Thành, xã Quảng Thành (huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã mạnh dạn đưa giống đu đủ đực về trồng lấy hoa, cho thu nhập khá.

 

 

Hoa đu đủ được anh Nguyễn Thanh Tùng (bên trái) thu hái 2 đợt trong tuần.

Một lần tình cờ biết được thông tin về công dụng của hoa đu đủ đực, anh Tùng tìm hiểu nhu cầu thị trường, đặc điểm, tác dụng. Nhận thấy nhu cầu chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh từ các loại thảo mộc tự nhiên ngày càng tăng, trong đó có hoa đu đủ đực, đầu năm 2022, anh Tùng quyết định cải tạo 3ha đất, mạnh dạn đưa loại cây này vào trồng.

Chỉ sau 6 tháng trồng và chăm sóc, anh Tùng thu hoạch hơn 7 tấn hoa đủ đủ tươi, lợi nhuận đem về cả trăm triệu đồng. Có động lực, anh đầu tư hơn trăm triệu đồng mua máy sấy, lắp đặt hệ thống tưới béc phun, vừa tiết kiệm nước, vừa giảm được nhân công.

Theo anh Tùng, với chân đất tốt, hoa đu đủ đực dài, to, ra quanh năm. Mỗi cây cho thu hoạch từ 4-5 lần / năm. “Vào mùa khô, hoa đu đủ đực rất khan hiếm nên tôi đào ao trữ nước, đảm bảo nguồn nước tưới cho cây ra hoa. Cây đu đủ đực rất dễ trồng, chỉ cần bón phân chuồng ủ mục, không tốn nhiều chi phí đầu tư, đảm bảo sản phẩm sạch để cung cấp ra thị trường”, anh Tùng cho biết thêm.

Hiện tại, hoa đu đủ tươi bán với giá 40 ngàn đồng/kg, hoa khô bán từ 350-600 ngàn đồng/kg (tùy mùa). Trung bình 7-8kg hoa đu đủ tươi sẽ được 1kg khô. Mỗi tuần, anh Tùng thu hoạch 2 lần, khoảng 300kg hoa đu đủ tươi để cung cấp cho các thương lái ở TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai và trong tỉnh.

Theo Đông y, hoa đu đủ đực có nhiều tác dụng trong y học, giúp trị nhiều bệnh như: ho, hỗ trợ tiêu hóa… Người thường xuyên bị hạ đường huyết có thể sử dụng hoa đu đủ đực để tăng lượng insulin trong cơ thể, giảm chóng mặt, nhức đầu. Hoa đu đủ đực chỉ cần rửa sạch, phơi khô, ngâm với mật ong và uống vào mỗi sáng.

Từ mô hình trồng đu đủ đực lấy hoa, anh Tùng đã tạo việc làm thường xuyên cho 4 lao động, với mức thu nhập hơn 7 triệu đồng/người/tháng; đồng thời hỗ trợ, hướng dẫn đoàn viên, thanh niên trên địa bàn trồng đu đủ thu hoạch hoa, tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn.

Anh Tùng cho biết, ngoài bán hoa đu đủ tươi, anh đang hướng đến chế biến thành bột hoa đu đủ, thay trà làm nước uống. Anh Tùng đang ấp ủ dự định xây dựng bột hoa đu đủ thành sản phẩm OCOP.

Bài, ảnh: ĐINH HÙNG

 

Lần đầu tiên tổ chức Festival 100 năm cây Dừa sáp Trà Vinh

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Trà Vinh

Festival 100 năm cây Dừa sáp được tỉnh Trà Vinh tổ chức lần đầu tiên nhằm tôn vinh, quảng bá thương hiệu, giá trị của trái dừa sáp Trà Vinh. Festival sẽ được tổ chức kết hợp với Tuần lễ Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè vào cuối tháng 8/2024.

 

 

Quang cảnh cuộc họp

Chiều ngày 12/4, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Thanh Bình chủ trì cuộc họp với lãnh đạo các sở, ngành và UBND huyện Cầu Kè bàn về kế hoạch tổ chức Festival 100 năm cây Dừa sáp Trà Vinh và Tuần lễ Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè năm 2024.

Sự kiện sẽ được tổ chức với quy mô cấp tỉnh. Các hoạt động diễn ra trên địa bàn huyện Cầu Kè, từ ngày 25/8 – 31/8/2024.

Trong khuôn khổ Festival 100 năm cây Dừa sáp Trà Vinh, Ban tổ chức sẽ sân khấu hóa tái hiện, tôn vinh vai trò, hình ảnh người nông dân gắn với cây dừa sáp tại lễ khai mạc. Bên cạnh đó, sẽ tổ chức chuỗi các hoạt động như: Hội thảo về cây dừa sáp, Trưng bày trái cây ngon, Hội thi chế biến 100 món ăn ngon từ dừa sáp (dự kiến xác lập kỷ lục Việt Nam), Tọa đàm Du lịch Cầu Kè – tiềm năng ven sông Hậu.

Ngoài ra, theo chương trình của Tuần lễ Vu lan Thắng hội, năm nay, lễ khai mạc Tuần lễ sẽ gắn với công bố Quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa Lễ hội Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Các hoạt động chính trong Tuần lễ Vu lan Thắng hội còn có: Hội chợ thương mại, Không gian ẩm thực, Liên hoan lân sư rồng, Trưng bày hình ảnh về Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè, các hoạt động thể thao, trò chơi dân gian và các hoạt động tín ngưỡng thờ Ông Bổn.

Tại cuộc họp, các sở, ngành tỉnh đã đóng góp nhiều ý kiến về biểu trưng của Festival, công tác phối hợp giữa các ngành và địa phương, công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi trường…

Phát biểu tại cuộc họp, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Thanh Bình đề nghị UBND huyện Cầu Kè và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp thu các ý kiến đóng góp, khẩn trương hoàn thiện kế hoạch để có cơ sở triển khai các bước tiếp theo.

Đồng thời, các sở, ngành là thành viên ban tổ chức, các tiểu ban cần chuẩn bị và xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết cho từng hoạt động mà đơn vị mình phụ trách để có sự chuẩn bị chu đáo, đảm bảo Festival 100 năm cây Dừa sáp Trà Vinh và Tuần lễ Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè năm 2024 diễn ra thành công, an toàn, mang lại hiệu quả quảng bá văn hóa, du lịch tốt nhất.

Phương An

 

Chủ động chăm sóc vườn cây ăn trái trong mùa nắng nóng

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Biến đổi khí hậu đang gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với nhiều loại cây trồng, đặc biệt tình hình khô hạn kết hợp với nắng nóng diễn ra gay gắt không chỉ ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh trưởng, năng suất, chất lượng trái của nhiều loại cây trồng mà còn có thể gây chết cây. Do vậy, nông dân cần chủ động đảm bảo nguồn nước tưới để chăm sóc, bảo vệ tốt vườn cây ăn trái, đảm bảo năng suất, chất lượng trái...

Nắng nóng gay gắt

Hạn hán, thiếu nước và xâm nhập mặn đang diễn ra gay gắt tại nhiều địa phương ven biển vùng ĐBSCL. Tại TP Cần Thơ, dù không bị ảnh hưởng bởi nước mặn xâm nhập nhưng cũng đang đối mặt với tình trạng khô hạn và nắng nóng diễn ra gay gắt. Những ngày qua, nền nhiệt ban ngày tại TP Cần Thơ và nhiều tỉnh vùng ĐBSCL đạt mức cao lên đến 36-37 độ C. Nắng nóng với nền nhiệt cao dễ làm cho nhiều loại cây ăn trái bị khô héo và suy kiệt nếu không được cung cấp nước tưới cùng các chất dinh dưỡng một cách phù hợp và kịp thời. Trong điều kiện thời tiết có nhiều bất lợi hiện nay, nhiều loại loại cây ăn trái cũng dễ bị tấn công bởi các loại sâu bệnh và dịch hại do có sức đề kháng yếu. Mùa này, nhiều loại cây ăn trái cũng đang trong quá trình ra hoa, đậu trái nên rất cần được chăm sóc kỹ và tưới đủ nước để đảm bảo năng suất và chất lượng trái như sầu riêng, dâu, măng cụt, chôm chôm…

 

 

Nông dân ở huyện Phong Điền tưới nước cho vườn cây.

Ông Nguyễn Văn Khanh ngụ ấp Trường Trung B, xã Tân Thới, huyện Phong Điền, có 4 công vườn trồng sầu riêng, cho biết: Vườn của tôi có 60 gốc sầu riêng Ri 6 trồng được 4 năm tuổi đang cho trái chiếng, còn lại khoảng 50 gốc mới trồng hơn 1 năm tuổi. Để bảo vệ vườn cây trong tình hình nắng hạn diễn ra gay gắt như hiện nay, tôi phải thường xuyên thăm vườn để đảm bảo cung cấp nước tưới đầy đủ, kịp thời. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng cây lục bình, cùng các loại cây cỏ và bồi sình cho gốc cây để giữ độ ẩm cho đất giúp cây phát triển tốt. Tuy nhiên, việc bồi sình chỉ áp dụng cho những gốc sầu riêng còn nhỏ, còn cây lớn đang cho trái thì không bồi sình vì sợ ảnh hưởng đến trái và bộ rễ của cây”. Anh Nguyễn Văn Trí ở ấp Trường Phú, xã Trường Thắng, huyện Thới Lai, cũng cho biết: “Để đảm bảo nước tưới cho vườn sầu riêng 2,5ha của nhà, tôi đã chủ động trữ nước trong mương vườn và sử dụng máy để tưới nước cho cây. Do cây sầu riêng đang nuôi trái nên cứ cách 1 ngày phải tưới nước 1 lần và thường xuyên kiểm tra độ ẩm của đất để đảm bảo cung cấp nước vừa phải cho từng gốc sầu riêng. Ngoài ra cũng tăng cường sử dụng các loại phân bón hữu cơ, hạn chế dùng các loại phân thuốc hóa học”.

Hỗ trợ nông dân

Cần Thơ hiện có hơn 25.072ha cây ăn trái các loại, với sản lượng thu hoạch trái đạt hơn 223.250 tấn/năm. Cây ăn trái được trồng trên địa bàn TP Cần Thơ khá đa dạng về chủng loại và có nhiều loại trái cây ngon, đặc sản như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, nhãn, vú sữa, xoài, mít, dâu, cam, bưởi, mận, mãng cầu... Thời gian qua, nhiều loại cây ăn trái trên địa bàn TP Cần Thơ cho hiệu quả kinh tế rất cao, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhiều hộ dân. Cây ăn trái là loại cây trồng lâu năm, nông dân phải tốn nhiều chi phí đầu tư và công sức mới có được các vườn cây cho trái, do vậy nếu để xảy ra tình trạng cây chết sẽ thiệt hại rất lớn về kinh tế.

Để phát huy hiệu quả vườn cây ăn trái và tránh các thiệt hại có thể xảy ra, thời gian qua ngành Nông nghiệp TP Cần Thơ cùng ngành chức năng tại các địa phương trên địa bàn thành phố đã quan tâm hỗ trợ, hướng dẫn nông dân áp dụng các giải pháp kỹ thuật và cách làm hiệu quả nhằm chăm sóc, bảo vệ tốt vườn cây trong mùa nắng nóng. Chủ động đảm bảo nguồn nước tưới cho vườn cây, cũng như áp dụng các giải pháp tưới nước tiết kiệm. Ngành chức năng cũng vận hành tốt các công trình thủy lợi và thường xuyên rà soát, nạo vét các kênh mương thủy lợi tạo nguồn để đảm bảo nước tưới tiêu phục vụ trồng cây ăn trái và sản xuất nông nghiệp nói chung. Theo ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, ngành Nông nghiệp đã tập trung khuyến cáo bà con thực hiện các giải pháp canh tác phù hợp nhằm chủ động thích ứng với điều kiện nắng nóng. Hướng dẫn bà con nông dân sử dụng các hệ thống cống và mương trữ nước để đảm bảo đủ nước tưới cho cây. Sử dụng các phụ phẩm rơm rạ, phụ phẩm thực vật để che phủ bờ và gốc cây... để bảo vệ cây. Thực hiện cắt tỉa các cành cây già cỗi, tạo tán cho cây thông thoáng, hạn chế nơi trú ẩn cho sinh vật gây hại. Ứng dụng các hệ thống tưới phun, tưới tiết kiệm nước và bón phân, cung cấp dinh dưỡng cho cây một cách cân đối.

Hiện nhiều nông dân cũng đã áp dụng các giải pháp dùng sình bùn và cây cỏ, rơm rạ để che chắn, bảo vệ vườn cây ăn trái trong mùa nắng nóng. Đồng thời, tăng cường bón phân hữu cơ và sử dụng các chế phẩm sinh học để phòng sâu bệnh và các loại nấm, vi khuẩn gây hại cây. Các biện pháp này tuy khá đơn giản những đã phát huy hiệu quả, cây ít bị thiệt hại. Nhiều hộ dân cũng đã đầu tư các hệ thống tưới phun tự động và tưới nhỏ giọt giúp tưới nước cho vườn cây rất tiện lợi, tiết kiệm được nhân công và nhiều chi phí.

Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG

 

Cấp thiết phòng trừ rệp sáp gây hại sầu riêng

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Hội đồng Khoa học Công nghệ của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng vừa đánh giá tính cấp thiết của đề tài “Nghiên cứu quản lý tổng hợp rệp sáp (Planococcus minor; Pseudococcus jackbeardsleyi) gây hại quả sầu riêng phục vụ xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”.

Đề tài dự kiến đặt hàng nhiệm vụ khoa học công nghệ triển khai từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2025, tổng kinh phí khoảng 1,5 tỷ đồng.

Theo Hội đồng, đề tài vừa nêu là một nhiệm vụ khoa học công nghệ mới, không trùng lắp với các đề tài quản lý dịch hại tổng hợp khác đã và đang triển khai trên cây trồng trong toàn tỉnh Lâm Đồng. Đặc biệt, đề tài có tính liên ngành, liên vùng cao, góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ thực vật, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm sầu riêng theo yêu cầu của nước nhập khẩu, qua đó chuyển giao, nhân rộng mô hình trên địa bàn.

Được biết, toàn tỉnh Lâm Đồng có khoảng 20.363,5 ha sầu riêng, tập trung các huyện Lâm Hà, Di Linh, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Bảo Lâm…, đạt tổng sản lượng gần 124.000 tấn. Đến năm 2030, phấn đấu tăng lên 30.000 ha với 270.000 tấn.

Hiện toàn tỉnh Lâm Đồng đã cấp 65 mã số vùng trồng sầu riêng với 3.416 ha phuc vụ xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc.

Trước đó từ tháng 7/2022, Việt Nam chính thức ký Nghị định thư xuất khẩu sầu riêng chính ngạch sang Trung Quốc với các ràng buộc về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, các biện pháp về quản lý dịch hại tổng hợp, nhất là đối với các loại rệp sáp gây hại.

“Bên cạnh đó, vào tháng 1/2024, Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo các lô hàng trái cây của Việt Nam nhiễm bệnh rệp sáp thuộc đối tượng kiểm dịch thực vật, trong đó tỉnh Lâm Đồng có 10 vùng sầu riêng vi phạm. Trên cơ sở đó, việc đề xuất thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ “Nghiên cứu quản lý tổng hợp rệp sáp (Planococcus minor; Pseudococcus jackbeardsleyi) gây hại quả sầu riêng phục vụ xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng” là thực sự cấp thiết hiện nay”, Hội đồng Khoa học Công nghệ - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng kết luận.

VĂN VIỆT

 

Đam Rông (Lâm Đồng): Mắc ca vào vụ thu hoạch

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Thông tin từ Hội Nông dân huyện Đam Rông (Lâm Đồng) cho biết, nông dân Đam Rông đang bước vào vụ thu hoạch trái mắc ca đợt 1. Năng suất được ước đạt trên 14 tạ/ha, là năng suất trung bình cho cây mắc ca. Được biết, tổng diện tích mắc ca toàn huyện Đam Rông đạt 1.582,1 ha, chủ yếu trồng xen trong vườn cà phê, trồng trên đất lâm nghiệp canh tác nông nghiệp ổn định. Giá mắc ca hiện được các thương nhân thu mua từ 80-100 ngàn đồng/kg, mang lại nguồn thu tốt cho người nông dân.

Được biết, tại Đam Rông cũng như hầu hết các địa phương trồng mắc ca của Lâm Đồng, cây sẽ ra trái 2 đợt vào tháng 4 và tháng 8, kéo giãn thời vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hoạch và chế biến.

D.Q

 

Lào Cai: Ngăn chặn sâu đo hại quế lây lan ra diện rộng

 

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Hiện nay, tại một số địa phương như Bắc Hà, Bảo Thắng, Bảo Yên, Văn Bàn (Lào Cai) có sâu đo gây hại mạnh trên cây quế với mật độ phổ biến 30 - 100 con/cây, cục bộ có nơi đến 200 con/cây. Ngành chức năng và các địa phương đang triển khai nhiều giải pháp ngăn chặn, không để sâu lan ra diện rộng.

Từ cuối tháng 3 đến nay, nhiều đồi quế tại xã Nậm Lúc (huyện Bắc Hà) bị sâu đo ăn lá gây hại mạnh. Sâu đo là loại gây hại theo đàn, đi đến đâu sẽ ăn trụi lá quế đến đó, để lại gân chính của lá (hiện tượng như cây bị chết). Sâu hại làm cây suy giảm sinh trưởng và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho những loài sâu hại thứ cấp xâm nhập, gây hại. Sâu đo tuổi nhỏ (tuổi 1 - 2) hoạt động mạnh, nhả tơ di chuyển theo gió để gây hại. Loài này hiện chưa có biện pháp phòng trừ triệt để, thường gây hại trở lại vào những năm tiếp theo.

Phát hiện lác đác sâu đo ăn lá quế từ hơn chục ngày trước, gia đình ông Quan Văn Hành ở thôn Nậm Lúc Thượng (xã Nậm Lúc) đã phun thuốc phòng trừ. Tuy vậy, sâu vẫn phát sinh, gây hại mạnh khiến rừng quế hơn 6 năm tuổi của gia đình ông bị trụi lá.

Khi phát hiện có sâu ăn lá gây hại, tôi đã mua thuốc về phun nhưng sâu chỉ giảm chứ không hết. Hiện gần 3 ha quế của gia đình bị sâu gây hại mạnh, khó có khả năng phục hồi.

Ông Quan Văn Hành cho biết.

Xã Nậm Lúc hiện có hơn 90 ha quế bị sâu bệnh gây hại, trong đó diện tích bị nhiễm nặng và rất nặng chiếm 50%. Ngay khi xuất hiện sâu bệnh gây hại, UBND xã đã thành lập Tổ kiểm tra, hướng dẫn Nhân dân phòng trừ. Theo đó, tổ thường xuyên kiểm tra diện tích sâu bệnh hại quế, diễn biến tình hình và tuyên truyền, hướng dẫn người dân biện pháp phòng trừ.

Chị Giàng Thị Vân, cán bộ khuyến nông xã Nậm Lúc cho biết: Hằng ngày, tôi có mặt ở các thôn, đến từng hộ dân có diện tích quế bị nhiễm sâu bệnh để hướng dẫn cách phòng trừ. Theo đó, đối với diện tích quế hữu cơ thì phun chế phẩm sinh học hoặc hoạt chất sinh học để cân bằng hệ sinh thái và tuyệt đối không phun thuốc hóa học ảnh hưởng đến chất lượng của quế hữu cơ. Đồng thời, tiến hành phát dọn cỏ dại ở các đồi quế, tỉa thưa cây, cành, xới đất xung gốc cây để diệt nhộng, ấu trùng trong đất. Đối với diện tích bị sâu đo gây hại mạnh, tiến hành phun đồng loạt, khoanh vùng để ngăn chặn sâu lây lan sang diện tích khác và phun nhắc lại lần 2 sau 7 - 10 ngày.

Đến nay, hơn 80% diện tích quế bị nhiễm sâu bệnh trên địa bàn xã Nậm Lúc đã được phun thuốc phòng trừ. Nhiều hộ đã chủ động thuê thiết bị bay không người lái để phun thuốc trừ sâu trên diện rộng và phun tại diện tích quế 6 - 7 năm tuổi. Nhiều hộ dân chủ động khai thác những đồi quế đến tuổi để tránh sâu bệnh gây hại.

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn huyện Bắc Hà có hơn 140 ha quế bị sâu gây hại (sâu đo ăn lá, sâu róm, bọ cánh cứng, sâu đục ngọn quế), trong đó đối tượng sâu đo ăn lá quế gây hại mạnh (hơn 110 ha). Diện tích bị gây hại chủ yếu tại các xã: Nậm Lúc, Nậm Đét, Cốc Lầu, Bản Cái…

Để trừ sâu bệnh, Hạt Kiểm lâm huyện Bắc Hà đã phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện và UBND các xã kiểm tra thực địa, tuyên truyền, khuyến cáo người dân các biện pháp phòng trừ và cung ứng thuốc bảo vệ thực vật cho chủ rừng phun kịp thời, không để lây lan ra diện rộng. Đối với những đồi quế hơn 6 năm tuổi không thể phun thủ công, huyện đã hướng dẫn người dân phun thuốc trừ sâu bằng máy bay không người lái.

Tại huyện Văn Bàn, các đối tượng sâu bệnh cũng phát sinh và gây hại trên cây quế tại các xã Thẳm Dương, Võ Lao, Sơn Thủy, Nậm Dạng... với tổng diện tích hơn 150 ha, trong đó có 5 ha nhiễm rất nặng, 68 ha nhiễm nặng. Cơ quan chuyên môn của huyện đã tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng thuốc trừ sâu hợp lý, phát dọn rừng quế để tạo độ thông thoáng và dùng bẫy đèn bẫy bướm.

 

 

Hiện trên địa bàn tỉnh có hơn 385 ha quế bị sâu bệnh gây hại, chủ yếu là sâu đo ăn lá tại các huyện: Bảo Yên, Bảo Thắng, Bắc Hà, Văn Bàn, Mường Khương. Trong đó, có 73 ha quế bị gây hại rất nặng và 122,5 ha bị gây hại nặng, diện tích còn lại bị gây hại ở mức trung bình và nhẹ. Rừng quế bị sâu hại sẽ sinh trưởng, phát triển kém, ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng. Diện tích quế bị sâu hại nặng và rất nặng có thể bị chết.

 

 

Ngay khi phát hiện sâu bệnh gây hại, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức đoàn kiểm tra, nắm bắt tình hình sâu bệnh và có văn bản yêu cầu các địa phương rà soát, thống kê báo cáo. Cùng với đó, sở đã tổ chức cuộc họp trực tuyến với 4 huyện (Bắc Hà, Bảo Thắng, Bảo Yên, Văn Bàn) và 12 xã có diện tích quế bị sâu gây hại lớn. Cùng tham gia cuộc họp có đại diện của Công ty Hương gia vị Sơn Hà, Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ rừng (thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) để nắm tình hình sâu bệnh và thống nhất một số giải pháp phòng trừ trên cây quế.

Các biện pháp được khuyến cáo diệt trừ sâu đo hại quế như: Xới xung quanh gốc cây để diệt nhộng, ấu trùng trong đất; bắt, diệt sâu non khi sâu mới nở còn co cụm ở một chỗ trên thân hoặc lá cây; rung cây cho sâu rơi xuống đất và tiến hành bắt, giết; dùng bẫy đèn để dẫn dụ ánh sáng bẫy bướm (ngài) trưởng thành, dùng vợt bắt và đem tiêu diệt (đây là biện pháp mang lại hiệu quả cao, an toàn song cần tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng, phát động toàn dân áp dụng thì mới đem lại hiệu quả).

Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học để phun trừ sâu, vừa tồn lưu lâu dài trong rừng vừa bảo vệ thiên địch ký sinh, không độc hại, không gây ô nhiễm môi trường. Chỉ sử dụng biện pháp hóa học khi mật độ sâu hại cao và trên diện tích quế không nằm trong vùng quế hữu cơ.

Về lâu dài, để hạn chế sâu bệnh phát sinh, gây hại thì cần áp dụng biện pháp trồng luân canh các loại cây lâm nghiệp và trồng xen canh cây quế với các loại cây lâm nghiệp khác. Hiện nay, tỉnh đang triển khai đề tài khoa học về nghiên cứu các biện pháp phòng trừ sâu bệnh trên cây quế. Trong thời gian tới, sở sẽ phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ rừng (thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) để nghiên cứu các giải pháp đồng bộ về phòng trừ các loại sâu bệnh hại quế.

Ông Nguyễn Quang Vĩnh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh.

Kim Thoa - Khánh Ly

 

Nông dân phấn khởi khi thuốc lá trúng mùa, được giá

 

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Thời điểm này, nông dân xã Hảo Đước, huyện Châu Thành (tỉnh Tây Ninh) đang vào vụ thu hoạch thuốc lá. Năm nay thuốc lá trúng mùa, được giá, bà con nông dân trong xã rất phấn khởi.

 

 

Gia đình ông Nguyễn Văn Hồi phân loại thuốc lá tại nhà

Bà Trần Thị Tuyết Trang- Chủ tịch Hội Nông dân xã Hảo Đước cho biết, những năm gần đây, cây mì liên tục mất mùa khiến nông dân thất thu, nhiều hộ chuyển đổi sang trồng thuốc lá dẫn đến diện tích trồng thuốc lá toàn xã lên 352,75 ha, trong đó, ấp Bình Lợi nhiều nhất với hơn 100 ha. Điều đáng mừng là năm nay thời tiết thuận lợi nên cây thuốc lá phát triển tốt.

Vụ thuốc lá năm nay, Hội Nông dân xã Hảo Đước đã tạo điều kiện cho nông dân vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội với khoản vay từ 30-50 triệu đồng/hộ và tổ chức tập huấn kỹ thuật cho bà con nông dân.

Ngoài ra, các doanh nghiệp hỗ trợ nông dân giá phân bón, phân công cán bộ phụ trách đến tận nơi giúp bà con về kỹ thuật gieo ươm và cam kết bao tiêu 100% sản phẩm nên người nông dân yên tâm sản xuất.

Năm nay, cây thuốc lá vàng không bị sâu bệnh, giá thuốc lá sấy khô được thu mua dao động từ 48.000-52.000 đồng/kg, cao hơn so với năm trước khoảng 13.000 đồng/kg.

Ông Nguyễn Văn Hồi, ngụ ấp Sân Lễ phấn khởi nói, năm nay gia đình ông trồng 3,5 ha thuốc lá giống K326, năng suất khoảng 4,5 tấn/ha. Sau khi trừ chi phí, gia đình ông thu lãi khoảng 100 triệu đồng/ha”.

Còn ông Nguyễn Văn Hoà, ngụ ấp Trường thì cho biết, ông trồng 2,5 ha thuốc lá, với giá thu mua như hiện nay (từ 40.000-50.000 đồng/kg thuốc lá sấy khô), trừ chi phí, gia đình của ông cũng “bỏ túi” gần 200 triệu đồng.

“Năm nay thuốc lá vàng trúng mùa, được giá không chỉ giúp bà con có thêm điều kiện tích luỹ vốn tái sản xuất mà còn có tăng thu nhập, cải thiện đời sống”- ông Nguyễn Văn Đạt, Chủ tịch UBND xã Hảo Đước chia sẻ.

Tố Tuấn - Hà Quang

 

Phú Yên: Hiệu quả từ mô hình tích hợp đa giá trị

 

Nguồn tin:  Báo Phú Yên

 

 

Mô hình đa giá trị của hộ ông Phan Thanh Minh ở xã Đức Bình Tây (huyện Sông Hinh) mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: NGỌC HÂN

Hiện nay, ngoài việc duy trì, cải thiện năng suất, sản lượng, nhiều mô hình kinh tế trang trại tại các địa phương đang dần chuyển đổi theo hình thức tích hợp đa giá trị. Đây được xem là hướng đi hiệu quả, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mang lại hiệu quả kinh tế.

Với cách làm sáng tạo, ông Phan Thanh Minh, sinh năm 1977, ở thôn Đồng Phú, xã Đức Bình Tây (huyện Sông Hinh, Phú Yên) đã tạo dựng được mô hình kinh tế nông thôn hiệu quả theo hướng tích hợp đa giá trị, cho thu nhập cao, ổn định, trở thành điểm tham quan học tập kinh nghiệm của người dân trong vùng.

Thu nhập cao

Đưa chúng tôi đi tham quan mô hình trang trại theo hướng tích hợp đa giá trị rộng hơn 3ha của gia đình, chỉ tay về hướng vườn bưởi da xanh hơn 350 gốc đang đến mùa thu hoạch, sai trĩu quả, ông Phan Thanh Minh kể, khu vườn này trước đây là vùng đất đồi hoang hóa, sản xuất kém hiệu quả.

Năm 2017, chính quyền địa phương vận động tham gia mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, gia đình ông bắt tay vào cải tạo đất và chọn cây bưởi là cây trồng chủ lực để phát triển kinh tế gia đình. Ngoài bưởi da xanh, để lấy ngắn nuôi dài, ông Minh còn trồng 0,5ha ớt chỉ thiên và đầu tư xây bể nuôi lươn không bùn trên diện tích 200m2, mỗi năm 1 lứa, mỗi lứa 40.000 con.

Để mô hình phát triển bền vững, ông Minh đã lựa chọn phương thức canh tác theo hướng hữu cơ. Trong quá trình sản xuất, ông sử dụng máy phát cỏ, gom cỏ ủ làm phân xanh; sử dụng phân chuồng ủ hoai mục để chăm bón cho cây; đồng thời xây bể chứa nước thải và thức ăn thừa từ nuôi lươn để bơm tưới tự động cho vườn cây. Nhờ chăm sóc tốt, đúng quy trình kỹ thuật nên sau hơn 3 năm trồng, vườn bưởi của gia đình ông Minh bắt đầu cho ra quả bói. Những trái bưởi chất lượng được thị trường đón nhận.

“Tôi rất vui vì cuối năm 2023, bưởi da xanh Đức Bình của gia đình tôi được UBND huyện công nhận sản phẩm OCOP 3 sao nên nhiều thương lái đến tận vườn đặt mua, không phải lo đầu ra tiêu thụ. Riêng vụ tết 2024, với giá bán bưởi cao hơn ngày thường từ 10.000-15.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, gia đình thu lợi gần 100 triệu đồng”, ông Minh phấn khởi nói.

Cũng theo tính toán của ông Minh, trong 2 năm trở lại đây, trung bình gia đình thu hái từ 6-7 tấn bưởi/vụ, với giá bán ổn định từ 35.000 đồng/kg; ớt trồng khoảng 3 vụ/năm, năng suất đạt 2 tấn/sào, giá 20.000-25.000 đồng/kg; còn lươn khoảng 8-10 tháng thu hoạch đạt trọng lượng 4-5 con/kg, giá bán từ 120.000-140.000 đồng/kg… đã mang lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình.

Xây dựng thành vườn mẫu

Theo ông Nguyễn Văn Út, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đức Bình Tây, mô hình đa giá trị của gia đình ông Minh đã giúp địa phương đạt các chỉ tiêu trong tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn để về đích xã nông thôn mới nâng cao.

“Mô hình tích hợp đa giá trị của ông Minh không chỉ mang lại nguồn thu nhập cho gia đình, mà còn tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều lao động ở địa phương. Hiện trang trại của ông được chọn làm mô hình vườn mẫu nông thôn mới của địa phương nhờ cách bố trí, sắp xếp khoa học, sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh môi trường. Trong tương lai, mô hình này hứa hẹn sẽ phát triển và được nhân rộng, đem đến những sản phẩm nông nghiệp sạch, an toàn, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng”, ông Út cho hay.

Hiện trang trại của ông Minh được xây dựng bài bản, có các loại máy làm đất, cắt cỏ và lắp đặt hệ thống tưới nước, tưới phân tự động. Mỗi loại cây trồng được trồng riêng một khu, ở giữa có lối đi rộng được đổ bê tông để tiện chăm sóc, bón phân, thu hoạch, đáp ứng các yêu cầu về vườn mẫu nông thôn mới, hướng đến tiêu chí xanh - sạch - đẹp, giúp môi trường sống vùng nông thôn được cải thiện.

“Nhờ mạnh dạn đầu tư, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, thu nhập của gia đình đã tăng gấp đôi, gấp ba so với trước đây, bình quân từ 500-600 triệu đồng/năm. Chỉ khoảng 2-3 năm nữa, dự kiến mô hình này sẽ mang lại hàng tỉ đồng mỗi năm. Được sự hỗ trợ của địa phương, tôi đang tiếp tục đầu tư thêm 1ha sầu riêng, quy hoạch thêm khu trồng rau sạch và đào ao nuôi cá nước ngọt… để phát triển mô hình du lịch trải nghiệm”, ông Minh cho biết thêm.

Ông Phạm Thọ, Phó Chủ tịch UBND xã Đức Bình Tây: Ông Phan Thanh Minh là tấm gương điển hình trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao của địa phương. Ông có tinh thần ham học hỏi, cần cù, chịu khó và luôn tìm hướng đi mới để nâng cao thu nhập cho gia đình. Bên cạnh đó, ông Minh còn chia sẻ kinh nghiệm trồng cây ăn quả cho nhiều hộ dân khác ở địa phương. Thời gian tới, địa phương sẽ tiếp tục vận động người dân chuyển đổi các mô hình kém hiệu quả sang các mô hình mang lại giá trị kinh tế cao.

NGỌC HÂN

 

Kích thích làm nông nghiệp công nghệ cao

 

Nguồn tin:  Báo Thừa Thiên Huế

Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đang là xu hướng phát triển của nền nông nghiệp nói chung và ngành nông nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng. Tuy nhiên, với chi phí đầu vào đắt đỏ và đầu ra vẫn còn chưa phổ dụng thì cần có chính sách kích cầu cho doanh nghiệp, cá nhân tham gia.

 

 

Nhiều chính sách hỗ trợ kích thích phát triển trồng lúa ứng dụng công nghệ cao

Nhiều chính sách hỗ trợ

Nhiều khó khăn, thách thức mà ngành nông nghiệp đang phải đối mặt, đó là nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, cháy rừng, sự biến động của thị trường và sự biến chuyển xu thế tiêu dùng theo hướng xanh, bền vững. Trước những nguyên nhân khách quan này, đòi hỏi ngành nông nghiệp phải liên tục đổi mới công tác quản lý để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đề ra.

Những năm qua, Sở Nông nghiệp và PTNT đã đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp thiết thực. Trong đó đã tập trung cơ cấu lại ngành theo hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp an toàn (hữu cơ, VietGAP…). Ưu tiên phát triển nhóm các sản phẩm chủ lực quốc gia như: Lúa chất lượng cao, tôm, thịt lợn và gia cầm, nhóm các sản phẩm chủ lực của tỉnh như thủy sản vùng đầm phá, sen, thanh trà, dược liệu và các sản phẩm OCOP. Đồng thời, cơ cấu lại trên từng lĩnh vực của ngành theo hướng đối tượng nào có lợi thế, có dư địa phát triển thì tập trung chỉ đạo, tập trung chính sách để hỗ trợ phát triển đối tượng đó.

Để nông nghiệp tỉnh có bước phát triển đột phá, đúng theo định hướng, Sở Nông nghiệp và PTNT đã tham mưu HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 20 và 30 quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp tỉnh đến năm 2025, trong đó trọng tâm là hỗ trợ các mô hình nông nghiệp công nghệ cao.

Nội dung của các Nghị quyết ngoài quy định các chính sách đặc thù của tỉnh đã lồng ghép một số chính sách của Trung ương như: Chính sách hỗ trợ tín dụng theo Nghị định 57 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 98 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Nghị định 109 về nông nghiệp hữu cơ.

Tận dụng ưu đãi, thu hút đầu tư

Các chính sách hỗ trợ về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; chăn nuôi trang trại, hữu cơ; sản xuất giống chất lượng cao; cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm gồm 10 nội dung hỗ trợ trong hàng rào: Trồng trọt, thủy sản công nghệ cao; sản xuất giống lợn, giống gà; chăn nuôi trang trại đối với lợn, bò, gà; chăn nuôi lợn hữu cơ; sản xuất giống cây lâm nghiệp bằng công nghệ nuôi cấy mô, túi bầu hữu cơ, giống cây lâm nghiệp bản địa, giống cây ăn quả; sản xuất giống thủy sản; cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung.

Định mức hỗ trợ cho mỗi nội dung là 50% trên tổng mức đầu tư, tối đa không quá từ 300 triệu đồng đến 1,5 tỷ đồng tùy theo từng loại hình và quy mô thực tế. Đơn cử, trồng trọt, thủy sản, chăn nuôi quy mô vừa không quá 500 triệu đồng; chăn nuôi quy mô lớn, sản xuất giống lợn, gia cầm quy mô vừa không quá 1 tỷ đồng, sản xuất giống lợn quy mô lớn không quá 1,5 tỷ đồng. Nếu các dự án thuộc đối tượng hỗ trợ theo 10 nội dung trên mà chưa có đường giao thông, điện, nước thì được hỗ trợ thêm phần đường, điện, nước, tối đa 200 triệu đồng đối với đường, 100 triệu đồng đối với điện, 50 triệu đồng đối với nước.

Ngoài ra, theo Nghị định 98 còn hỗ trợ phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, gồm: Hỗ trợ chi phí tư vấn xây dựng liên kết, không quá 200 triệu đồng/dự án; hỗ trợ đầu tư hạ tầng, máy móc thiết bị phục vụ liên kết, hỗ trợ 30% tổng kinh phí và tối đa không quá 2 tỷ đồng/dự án; hỗ trợ giống, vật tư, bao bì, nhãn mác sản phẩm, hỗ trợ từ 50-70% (70% đối với miền núi và xã bãi ngang) tổng kinh phí và tối đa không quá 1 tỷ đồng/dự án; kinh phí chuyển giao quy trình kỹ thuật và quản lý chất lượng, hỗ trợ 40% và tối đa không quá 200 triệu đồng/dự án; hỗ trợ 100% kinh phí chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ.

Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, đến nay, trên địa bàn tỉnh có 23 cơ sở đầu tư sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đã được hỗ trợ, với tổng kinh phí hỗ trợ hơn 7,3 tỷ đồng. Các huyện, thị xã, thành phố đã thực hiện hỗ trợ các nội dung thuộc thẩm quyền cấp huyện với kinh phí khoảng 14 tỷ đồng. Các cơ sở sản xuất sau khi được nhận hỗ trợ đã tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất và đạt kết quả cao về năng suất, giá trị nông sản, khẳng định hiệu quả của chính sách trong việc khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tuy vậy, với con số hơn 20 cơ sở đầu tư sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được hỗ trợ thì vẫn còn quá ít so với dư địa, tiềm năng để phát triển các mô hình nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn.

Đại diện Sở Nông nghiệp và PTNT chia sẻ, để tăng cường vai trò "bà đỡ" của Nhà nước, nhân rộng các mô hình được hỗ trợ tại các địa phương, ngành nông nghiệp tích cực tuyên truyền sâu rộng nội dung các nghị quyết với các chính sách hỗ trợ cụ thể đến các doanh nghiệp, hợp tác xã, bà con nông dân và đặc biệt là các bạn trẻ, các startup có dự định đầu tư nông nghiệp công nghệ cao có thể nghiên cứu đầu tư các nội dung phù hợp.

Bài, ảnh: HOÀI NGUYÊN

 

Lão nông thời 4.0

 

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Kiên Giang

Gần 10 năm qua, ông Huỳnh Công Thành, ngụ xã Đông Thạnh (An Minh, tỉnh Kiên Giang) sử dụng điện thoại thông minh để cập nhật tin tức thời sự, kiến thức chăn nuôi, trồng trọt. Nhờ sử dụng điện thoại thông minh, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin giúp ông Thành nâng cao hiệu quả mô hình kinh tế của gia đình, tích cực tham gia vào quá trình chuyển đổi số của địa phương.

 

Ông Huỳnh Công Thành (bên trái), ngụ xã Đông Thạnh (An Minh) và nông dân cập nhật kiến thức, kỹ thuật nuôi cua từ mạng internet.

Nhận thấy tiện ích từ điện thoại thông minh, tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ số vào đời sống, sản xuất, ông Thành chủ động chuyển từ điện thoại có chức năng nghe, gọi sang sử dụng điện thoại thông minh. Lúc đầu ông Thành chưa quen sử dụng điện thoại thông minh, được các con hướng dẫn nên từng bước biết cách thao tác, sử dụng tính năng của điện thoại và dần thành thạo. Hiện chiếc điện thoại thông minh trở thành công cụ đắc lực giúp ông liên lạc, đọc báo, tra cứu thông tin để cập nhật kiến thức về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt từ mạng internet. Theo ông Thành, để bắt nhịp với tiến bộ khoa học, công nghệ, đòi hỏi nông dân phải thay đổi tư duy, cách làm. Việc sử dụng điện thoại thông minh giúp tiếp cận, cập nhật thông tin nhanh, từ đó nâng cao kiến thức.

Với ông Thành, sử dụng điện thoại thông minh, sử dụng mạng internet phục vụ sản xuất, tìm hiểu thế giới bên ngoài, nâng cao giá trị nông sản là niềm vui của ông. Quá trình ứng dụng công nghệ số, tiến bộ khoa học vào sản xuất ban đầu ông Thành vào mạng để tìm hiểu nội dung đơn giản như mua giống chất lượng ở đâu, kỹ thuật canh tác, nhưng càng tìm hiểu ông thu được nhiều thông tin giá trị, biết cách chọn giống cây trồng, vật nuôi phù hợp điều kiện sản xuất của gia đình. Từ kiến thức có được thông qua ứng dụng công nghệ số, ông Thành tối ưu hóa quy trình sản xuất, chủ động nâng cao chất lượng, giá trị cây trồng, vật nuôi, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống, làm giàu từ đồng đất quê hương.

Mỗi năm từ mô hình trồng lúa, nuôi tôm trên diện tích 2,9ha đất của gia đình, ông Thành thu lợi nhuận gần 250 triệu đồng. Nhiều năm liền ông Thành đạt danh hiệu nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi của huyện An Minh. Không chỉ ứng dụng kiến thức chăn nuôi, trồng trọt vào mô hình sản xuất của gia đình, đảm nhiệm vai trò Chi hội trưởng Chi hội Nông dân ấp Thạnh Lợi, ông Thành thường xuyên nghiên cứu, tham khảo nhiều mô hình kinh tế hiệu quả, cập nhật kỹ thuật nuôi tôm, cua, trồng lúa, hướng dẫn hội viên cách nuôi lươn, chồn hương hiệu quả. Ông Thành tiếp tục ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, lựa chọn các giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, đưa sản phẩm đến gần người tiêu dùng, giúp nâng cao giá trị sản phẩm.

Ông Thành cho biết: “Chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích cho đời sống sinh hoạt, sản xuất của nông dân, góp phần giúp nông dân giảm thiểu rủi ro, thiệt hại do biến đổi khí hậu, kết nối trực tiếp với người tiêu dùng, nâng cao năng suất lao động thông qua thiết bị điều khiển từ xa trong các khâu sản xuất”. Tích cực tham gia vào quá trình chuyển đổi số của địa phương để trở thành công dân số, ông Thành chủ động tiếp cận, tìm hiểu cách ứng dụng dịch vụ công trực tuyến để giải quyết thủ tục hành chính tại nhà; sử dụng Zalo, Facebook để triển khai nội dung sinh hoạt của chi hội nông dân; trao đổi, hỗ trợ kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt cho hội viên./.

Cẩm Tú

 

Du lịch nông nghiệp: Thế mạnh của du lịch Tây Ninh

 

Nguồn tin:  Báo Tây Ninh

Những vườn dâu tằm, dược liệu cây hoàn ngọc, cây lược vàng hay những rẫy mãng cầu cho trái quanh năm… là bước đệm để du lịch nông nghiệp Tây Ninh cất cánh trong tương lai không xa.

Là một tỉnh nông nghiệp, Tây Ninh được đánh giá là có nhiều tiềm năng để phát triển loại hình du lịch xanh, du lịch trải nghiệm bên cạnh việc phát triển du lịch tâm linh với trung tâm là núi Bà Đen và Toà thánh Tây Ninh. Những vườn dâu tằm, dược liệu cây hoàn ngọc, cây lược vàng hay những rẫy mãng cầu cho trái quanh năm… là bước đệm để du lịch nông nghiệp Tây Ninh cất cánh trong tương lai không xa.

Làm nông kết hợp du lịch

Nằm trên địa bàn xã Tân Hưng, huyện Tân Châu, 3 năm nay, vườn dâu tằm Ba Phong của vợ chồng anh Nguyễn Thanh Vũ đã dần được nhiều người biết đến. Anh Vũ vốn là kỹ sư Nông nghiệp. Sau một thời gian làm việc cho công ty Nhật, anh học hỏi được nhiều kinh nghiệm về làm nông nghiệp hữu cơ và bắt đầu nghiên cứu, thử nghiệm trên mảnh đất 5 ha đất đang trồng cao su của gia đình. “Tôi đã dành 2 năm để cải tạo đất và quyết định trồng cây theo hướng hữu cơ hoàn toàn. Sau khi đất ổn định, tôi bắt đầu trồng dâu tằm, dừa xiêm, sầu riêng và bưởi”.

Sau 3 năm trồng cây, áp dụng phương pháp bón phân hữu cơ, vườn dâu tằm và dừa của anh Vũ đã bắt đầu cho trái và năng suất cao hơn so với những năm đầu tiên. Anh Vũ thực hiện phương pháp nuôi trùn quế ngay tại gốc cây trồng. Trùn là sinh vật tạo nên độ tơi xốp, màu mỡ cho đất.

Anh cũng chú ý để vườn lúc nào cũng rợp một màu xanh của cỏ. “Cỏ lớn thì tôi cắt xuống rồi lại ủ vào gốc cây, tạo phân xanh. Đất có cỏ sẽ giúp cân bằng hệ sinh thái, giữ độ ẩm ổn định cho đất- nhất là trong mùa khô hạn”- anh Vũ nói.

Từ khi vườn bắt đầu có thu hoạch, nhiều du khách trong tỉnh, ngoài tỉnh đã biết đến vườn và đến tham quan, trải nghiệm. Mọi người thực sự thích thú với không gian tươi mát, trong lành tại vườn dâu tằm Ba Phong. Tại đây, mọi người có thể tìm hiểu quy trình làm vườn hữu cơ, trải nghiệm hái dâu tằm và thưởng thức miễn phí ngay tại vườn.

“Hiện tại, chúng tôi có 1.000 gốc dâu tằm. Tuỳ vào thời điểm, mỗi ngày chúng tôi hái được khoảng từ 50 kg, có hôm nhiều được khoảng 100 kg. Chủ yếu là tiêu thụ về thị trường Thành phố Hồ Chí Minh. Số còn lại, chúng tôi sẽ chế biến các thành phẩm từ dâu tằm như si rô, mứt dâu tằm… để bán cho du khách.

Nơi đây, thời gian qua đã đón rất nhiều gia đình, các đoàn học sinh, các bạn trẻ đi phượt đến tham quan, chụp ảnh; và từ những chia sẻ của mọi người đã lan toả thông tin đến nhiều người hơn nữa. Chúng tôi hy vọng mô hình làm vườn hữu cơ sẽ tiếp tục được nhân rộng bởi nhiều lợi ích mà nó mang lại và đó cũng là mô hình cho du lịch Tây Ninh trong thời gian tới”- anh Vũ cho biết.

Còn với anh Minh Trung- Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) mãng cầu Minh Trung (xã Tân Hưng, Tân Châu), gần một năm qua, anh bắt đầu triển khai chương trình tham quan và trải nghiệm hái mãng cầu tại các vườn trong HTX của anh.

Anh Trung cho biết, hiện nay, đa phần các vườn mãng cầu nằm ở vị trí xe ô tô khó đến, lại không tập trung một khu vực, nên để đưa du khách đến vườn, thời gian qua, anh sử dụng xe ba bánh để đưa rước khách. Xe được anh Trung cải tạo thêm phần mái che phía trên, bố trí ghế nhựa làm chỗ ngồi cho khách.

Với cách tổ chức này, thời gian qua, đã có một số du khách đã tìm đến tham quan, trải nghiệm hái mãng cầu tại các vườn của HTX Minh Trung.

“Do hiện tại các vườn nằm rải rác, không tập trung, nên để có thể bảo đảm lúc nào cũng có mãng cầu đến lứa cho mọi người hái và ăn tại vườn, du khách cần đăng ký báo trước để mình sắp xếp chọn vườn cho phù hợp. Trong tương lai, tôi sẽ xây dựng một khu vực tập trung có nơi đón tiếp du khách, một khu trồng mãng cầu cho trái luân phiên. Để khi nào mọi người đến tham quan cũng có mãng cầu hái và ăn ngay tại vườn”- anh Minh Trung cho biết.

Xây dựng du lịch nông thôn riêng có

Ông Ngô Trần Ngọc Quốc- Chủ tịch Hiệp hội Du lịch tỉnh nhấn mạnh: “Chúng ta cần tạo ra sự khác biệt của du lịch Tây Ninh, tạo nên những sản phẩm đặc thù. Tới đây, Hiệp hội Du lịch tỉnh sẽ xây dựng một hệ sinh thái cộng sinh, tất cả các hội viên trong lĩnh vực du lịch sẽ cùng với nhau tạo nên hệ sinh thái, tạo nên sức mạnh cộng đồng, như thế sẽ đi xa, bền vững”.

Chủ tịch Hiệp hội Du lịch tỉnh kỳ vọng, trong tương lai, du lịch nông nghiệp sẽ là thế mạnh tạo nên mảng du lịch xanh nhằm tạo đột phá cho sự phát triển của du lịch Tây Ninh.

Nhận định, du lịch xanh, du lịch nông nghiệp hiện nay là định hướng phát triển lâu dài của ngành du lịch, bà Lê Thị Như Oanh- Phó Giám đốc Công ty TNHH DV Du lịch Hương Sen Việt cho rằng, Tây Ninh có tiềm năng du lịch xanh cực kỳ lớn.

“Nếu du lịch Tây Ninh phát triển theo hướng này sẽ giúp mang lại trải nghiệm nhiều hơn cho du khách khi về Tây Ninh với thời gian 2-3 ngày. Hiện tại, nếu du khách đến Tây Ninh trong chương trình 2 ngày, ngày đầu mọi người đến Tây Ninh nhận phòng xong mọi người sẽ tự do tham quan, đến ngày hôm sau mới bắt đầu đi núi Bà Đen tham quan, chiêm bái.

Do đó, nếu phát triển được chương trình nông nghiệp xanh sẽ rất phù hợp cho chương trình trải nghiệm vào buổi chiều ngày đầu tiên đến Tây Ninh. Hoặc nếu chương trình cho khách ở 3 ngày, chúng ta có thể bố trí một ngày trải nghiệm du lịch nông thôn kết hợp với ẩm thực địa phương là hình thức rất hay và cần phát triển ở Tây Ninh. Đặc biệt là việc di chuyển vào các vườn mãng cầu bằng xe ba bánh, tôi nghĩ rất hấp dẫn đối với các du khách”- bà Như Oanh đề xuất.

 

 

Trải nghiệm hái mãng cầu tại vườn.

Theo bà Trần Thị Huy Hoàng- Phó Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, vừa qua, Sở phối hợp cùng Hiệp hội Du lịch tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức khảo sát các điểm đến trên địa bàn các huyện Tân Châu, Dương Minh Châu và thành phố Tây Ninh.

“Qua khảo sát nhằm kết nối những đơn vị lữ hành với chủ cơ sở có những sản phẩm đặc sản, qua đó mong muốn các đơn vị lữ hành xây dựng những tour du lịch mới đưa khách đến với Tây Ninh. Chúng tôi hy vọng qua đây sẽ tạo ra những sản phẩm du lịch mới, tăng lượng du khách đến với Tây Ninh và giữ chân du khách lưu trú tại Tây Ninh dài ngày hơn” - bà Trần Thị Huy Hoàng nói.

Với những tiềm năng và lợi thế hiện có, hy vọng trong tương lai không xa, các tour du lịch nông nghiệp, du lịch xanh tại Tây Ninh sẽ được phát triển và được nhiều du khách đón nhận. Đây cũng là chủ trương của tỉnh trong việc thực hiện chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023-2025 theo Kế hoạch 2606 ngày 18.8.2023 của UBND tỉnh và thực hiện những giải pháp mang tính đột phá để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2021-2026.

Ngọc Diêu

 

Bình Định: 16 hộ tham gia nuôi gà thả đồi

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Ông Huỳnh Ngọc Diệp, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y (Sở NN&PTNT) Bình Định, cho biết: Từ đầu năm đến nay, có 10 hộ ở huyện Hoài Ân và huyện Tây Sơn đăng ký tham gia chính sách khuyến khích nuôi gà thả đồi. Trong đó, huyện Hoài Ân có 10 hộ, với 62.400 con/năm; huyện Tây Sơn có 6 hộ, với 36.000 con/năm.

Công ty TNHH Giống gia cầm Cao Khanh (huyện Phù Cát), Công ty CP Hồng Hà Bình Định (TX An Nhơn) và Công ty TNHH dịch vụ sản xuất thương mại Việt Vương (TP Quy Nhơn) là 3 đơn vị tổ chức liên kết, tiêu thụ sản phẩm cho các hộ đăng ký tham gia chính sách khuyến khích nuôi gà thả đồi này.

Hiện nay, Chi cục Chăn nuôi và Thú y đang tiếp tục phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức rà soát và chọn thêm hộ chăn nuôi đủ điều kiện thụ hưởng chính sách khuyến khích nuôi gà thả đồi tại các huyện miền núi trong tỉnh.

TRỌNG LỢI

 

Chăn nuôi con đặc sản: Chi phí thấp, hiệu quả cao

 

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

Từ nhu cầu của thị trường, nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã mạnh dạn đầu tư mô hình chăn nuôi các con đặc sản theo hướng hàng hóa. Từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời góp phần mở ra hướng phát triển sản xuất mới.

Sau một thời gian tìm hiểu, nhận thấy mô hình nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao, đã được người dân ở nhiều tỉnh, thành phố thực hiện thành công nên cuối năm 2022, gia đình ông Nguyễn Văn Tuyên (ở xóm Cà, xã Tân Khánh, Phú Bình) đã mạnh dạn đầu tư phát triển mô hình này. Sẵn có mặt bằng chăn nuôi gà rộng 500m2 bỏ không, ông cải tạo lại thành trang trại nuôi lươn thương phẩm và lươn giống. Nhờ chịu khó học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước nên ngay lứa đầu tiên, mô hình đã đem lại hiệu quả cao.

Theo đó, năm 2023 ông xuất bán ra thị trường 3 tấn lươn thịt, với giá bán từ 180-200 nghìn đồng/kg và 50.000 con lươn giống, với giá bán từ 3.500-10.000 đồng/con. Trừ hết chi phí, ông thu về trên 300 triệu đồng.

Ông Nguyễn Văn Tuyên chia sẻ: Kỹ thuật nuôi lươn không bùn không quá khó, chủ yếu phải đảm bảo nguồn nước luôn an toàn, còn thức ăn gồm cám công nghiệp và giun quế. Đầu ra cho cả lươn thịt và lươn giống hiện nay rất thuận lợi, giá lại ổn định. Hiện tại, tôi và một số người đang cùng xây dựng nhà máy chế biến sản phẩm liên quan đến lươn để đa dạng hóa đầu ra.

Tương tự, tận dụng diện tích chuồng trại chăn nuôi gà bỏ không, gia đình ông Hà Văn Nam (ở xóm Phú Thọ, xã Phú Đô, Phú Lương) đầu tư nuôi đà điểu thương phẩm. Trung bình mỗi năm, ông Nam nuôi khoảng 20 con và xuất bán ra thị trường gần 2 tấn thịt, với giá 250 nghìn đồng/kg. Ông cho biết: Đà điểu là loài chim dễ nuôi, lớn nhanh, ít dịch bệnh, thức ăn chủ yếu là những loại sẵn có tại địa phương như: rau lá, cỏ, thân cây chuối, cám ngô, sắn... Sau 7-8 tháng chăn nuôi thì một con đà điểu cho lãi từ 2-10 triệu đồng, tùy thuộc vào trọng lượng.

 

 

Từ hiệu quả kinh tế bước đầu, gia đình ông Hà Văn Nam (ở xóm Phú Thọ, xã Phú Đô, Phú Lương) dự định tăng số lượng nuôi đà điểu từ 20 con lên 30 con vào cuối năm 2024.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh ngoài mô hình của ông Tuyên và ông Nam còn có hàng trăm mô hình chăn nuôi các con đặc sản khác như: ba ba, dúi, nhím, hươu... mỗi năm đem về thu nhập từ vài chục đến vài trăm triệu đồng cho các cơ sở chăn nuôi.

Chỉ tính riêng các cơ sở nuôi động vật hoang dã, trên địa bàn tỉnh hiện có 207 cơ sở chăn nuôi 30 loài đã được ngành chức năng cấp phép, với tổng số cá thể gần 27.800 con. Từ thành công của một số mô hình, nhiều người dân đã đến học hỏi và áp dụng để phát triển kinh tế gia đình. Nhiều mô hình từ 1-2 hộ ban đầu đã phát triển lên thành hợp tác xã (HTX). Đơn cử như HTX nuôi hươu cựu chiến binh Trọng Hùng (ở xã Tân Hòa, Phú Bình) có 38 thành viên, với tổng đàn hươu trên 300 con. Năm 2023, doanh thu của HTX đạt trên 7 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 2,9 tỷ đồng.

Ông Ngô Văn Hùng, Giám đốc HTX, cho biết: Trước đây, cả xã chỉ có duy nhất gia đình tôi nuôi hươu lấy nhung và hươu giống. Khi thấy có hiệu quả, nhiều người đã đến học hỏi, sau đó đầu tư chăn nuôi. Để hỗ trợ nhau về kỹ thuật, con giống và vốn đầu tư, năm 2017 chúng tôi đã cùng nhau thành lập HTX nuôi hươu cựu chiến binh Trọng Hùng.

Nhằm hỗ trợ người dân trong quá trình chăn nuôi các con đặc sản, thời gian qua, ngành chức năng cũng như các địa phương trong tỉnh đã đẩy mạnh tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho bà con nông dân; hỗ trợ xây dựng mô hình điểm tại một số địa phương; tuyên truyền, hướng dẫn người dân nuôi con đặc sản theo định hướng và gắn với thị trường tiêu thụ; kiểm soát chặt chẽ từng mô hình, nhất là đối với những mô hình nuôi động vật hoang dã cần được cấp phép…

Vũ Công

 

Xử lý chất thải trong chăn nuôi heo với chi phí thấp: Giải pháp tốt, giảm ô nhiễm môi trường

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Trường ÐH Văn Lang (TP Hồ Chí Minh) vừa phối hợp với Sở KH&CN tỉnh Bình Định tổ chức hội thảo về thực trạng chăn nuôi và mô hình xử lý chất thải chăn nuôi heo quy mô nhỏ trên địa bàn tỉnh. Qua đó, đưa ra một số giải pháp xử lý chất thải chăn nuôi heo quy mô nhỏ, chi phí thấp để các nông hộ có thể áp dụng; góp phần hạn chế tình trạng ô nhiễm do chăn nuôi heo.

Theo thống kê của ngành chức năng, hiện trên địa bàn tỉnh có hơn 770 trang trại chăn nuôi heo quy mô nhỏ, vừa và lớn, tập trung chủ yếu tại huyện Hoài Ân, Phù Cát và TX An Nhơn. Đến cuối năm 2023, tổng đàn heo trên địa bàn tỉnh hơn 686.230 con; trong đó, đàn heo nuôi tại nông hộ khoảng 460 nghìn con. Với số lượng này, chất thải rắn từ hoạt động chăn nuôi thải ra khoảng hơn 1.000 tấn/ngày và lưu lượng nước thải khoảng hơn 21.900 m3/ngày. Nếu không xử lý tốt, đây sẽ là nguồn gây ô nhiễm môi trường rất lớn.

Khoảng 65% hộ chăn nuôi heo có công trình xử lý chất thải

Thực tế quan trắc chất lượng nước mặt tại khu vực có tiếp nhận nước thải chăn nuôi heo ở huyện Hoài Ân và TX Hoài Nhơn cho thấy, các chỉ tiêu NO2, DO, COD, Amoni, Coliform… đều vượt quy chuẩn cho phép nhiều lần. Thực trạng này đòi hỏi phải có giải pháp xử lý chất thải, nước thải chăn nuôi heo hiệu quả; tránh ảnh hưởng xấu đến môi trường và đời sống.

 

 

Việc áp dụng các mô hình, giải pháp xử lý chất thải chăn nuôi heo theo phương pháp tiên tiến vừa mang lại lợi ích cho người chăn nuôi, vừa bảo vệ môi trường.

- Trong ảnh: Một hộ chăn nuôi heo ở huyện Hoài Ân đang vệ sinh chuồng trại. Ảnh: V.L

Theo Chi cục Bảo vệ môi trường (Sở TN&MT), khoảng 65% hộ chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh có công trình biogas xử lý chất thải và nước thải. Tuy nhiên thực tế, phần lớn công trình biogas bị quá tải, hoặc người chăn nuôi vận hành, sử dụng chưa đúng cách nên quá trình xử lý chưa đạt yêu cầu.

Ông Nguyễn Văn Thông, ở xã Bình Thuận (huyện Tây Sơn), cho hay: “Khoảng 5 năm nay, gia đình tôi xây dựng công trình hầm biogas để xử lý chất thải và nước thải chăn nuôi heo. So với lúc chưa có công trình biogas, mức độ ảnh hưởng môi trường do chăn nuôi heo giảm rất nhiều. Nhưng thú thật, để hết hẳn mùi hôi thì rất khó”.

Còn bà Lê Thị Liên, ở xã Cát Lâm (huyện Phù Cát), chia sẻ: “Gia đình tôi làm công trình biogas xử lý chất thải chăn nuôi heo, nhưng do hạn chế về vốn đầu tư nên chỉ có thể làm công trình có công suất xử lý nhỏ. Nhiều lúc heo tăng giá, gia đình nâng số lượng đàn dẫn đến chất thải, nước thải nhiều, hầm biogas xử lý không kịp, khiến môi trường xung quanh cũng bị ảnh hưởng”.

Cần áp dụng mô hình xử lý chất thải tiên tiến hơn

TS Nguyễn Việt Cường, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường, cho biết: Hằng năm, các đơn vị, địa phương tổ chức tập huấn cho cán bộ môi trường cấp huyện, xã về công tác bảo vệ môi trường, nhất là trong hoạt động chăn nuôi heo. Ngoài ra, hướng dẫn các hộ chăn nuôi heo xử lý mùi hôi chuồng trại, chất thải chăn nuôi bằng chế phẩm sinh học. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường, ngoài nỗ lực của ngành chức năng và chính quyền địa phương, việc người chăn nuôi chủ động, tích cực áp dụng các mô hình xử lý chất thải tiên tiến là rất cần thiết.

Theo đại diện Trường ĐH Văn Lang, đơn vị đã và đang triển khai thí điểm 2 mô hình xử lý chất thải chăn nuôi heo quy mô nhỏ (từ 50 - 100 con) bằng công nghệ lọc sinh học tuần hoàn và Wetland tại một số nông hộ ở huyện Hoài Ân. Kết quả bước đầu mang lại nhiều tín hiệu tích cực, xung quanh khu vực chuồng trại chăn nuôi không phát sinh mùi hôi và nước thải xả ra môi trường đảm bảo các tiêu chuẩn cho phép.

Th.S Nguyễn Văn Nghĩa, Trường ĐH Văn Lang, cho biết: 2 mô hình đều áp dụng công nghệ sinh học kết hợp với hóa - lý. Trong đó, tập trung xử lý ô nhiễm hữu cơ trong nước thải thông qua các công đoạn xử lý sinh học kỵ khí (hầm biogas), thiếu khí (bể thiếu khí khuấy trộn đáy) và hiếu khí (bể hiếu khí có giá thể lơ lửng và lọc sinh học hiếu khí).

“Kết quả phân tích chất lượng nước thải và xử lý chất thải tại các nông hộ sau khi áp dụng mô hình cho thấy hiệu quả cao. Các thông số về NO2, TSS, COD, BOD, Amoni, Coliform đều nằm trong biên độ tiêu chuẩn cho phép theo quy định. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư xây dựng các mô hình không quá cao, phù hợp với điều kiện chăn nuôi, năng lực kinh tế cấp nông hộ”, Th.S Nghĩa cho biết thêm.

VĂN LỰC

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop